Thứ Tư, 30 tháng 11, 2011
20-11-2011 (Phần 3-một số hình ảnh của lũ trò lộn xộn trước nhà cô)
Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2011
Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2011
HÌNH ẢNH NGÀY HỘI LỚP
Thưa các bạn !
Mình đang chờ Âu gửi nốt hình ảnh để biên tập và có kế họach post ảnh ngày hội lớp lên blog. Mình sẽ post chậm nhất vào ngày thứ 2 đầu tuần.
Xin lỗi về sự chậm trễ . Chúc các bạn cuối tuần vui.
PS : Ảnh thầy Tùng chụp các bạn có thể xem tại blog của thầy theo đường link sau : http://vn.360plus.yahoo.com/thongxanh1945/article?mid=1359
Mình đang chờ Âu gửi nốt hình ảnh để biên tập và có kế họach post ảnh ngày hội lớp lên blog. Mình sẽ post chậm nhất vào ngày thứ 2 đầu tuần.
Xin lỗi về sự chậm trễ . Chúc các bạn cuối tuần vui.
PS : Ảnh thầy Tùng chụp các bạn có thể xem tại blog của thầy theo đường link sau : http://vn.360plus.yahoo.com/thongxanh1945/article?mid=1359
Thứ Năm, 13 tháng 10, 2011
Kế hoạch họp lớp 12A1 tại Hải Phòng!
Chào các bạn 12A1!
Nhóm 12A1 Hải Phòng vừa có cuộc họp bất thường vào trưa nay với nội dung: Bàn kế hoạch họp lớp 12A1-1984 - Thái Phiên vào tháng 11 tới. Do thời gian họp gấp nên không có mặt đông đủ tất cả các bạn 12A1 tại HP, nhưng ban Liên lạc và các thành viên có mặt cũng đã có một buổi gặp mặt rất vui. Được sự uỷ quyền của Ban liên lạc, tớ xin được gửi thông báo bằng mail tới tất cả các bạn phương nam, Hà Nội và các bạn HP vắng mặt hôm nay về kế hoạch họp lớp 12A1 như sau:
Với tinh thần ưu tiên các bạn phương Nam kết hợp về HP vừa để hội lớp 12A1 - 1984-Thái Phiên vừa để tham dự Hội trường cấp II Lạc Viên kỷ niệm 80 năm thành lập, Lớp chúng ta sẽ tổ chức họp lớp vào ngày 20/11/2011 (tức ngày chủ nhật) . Xin giải thích thêm bạn Thắng đã liên lạc với ban liên lạc trường Lạc Viên và được biết Trường sẽ tổ chức kỷ niệm 80 năm và đón tiếp các cựu học sinh của trường vào ngày thứ 7 (19/11).
Kế hoach họp lớp vào ngày 20/11 cụ thể như sau:
- Sáng 20/11: Từ 8h30 -9h: Các bạn tập trung tại nhà hàng cạnh Nhà hát Tháng 8 - Đường Đinh Tiên Hoàng (Quán ruột của nhà Oanh - Năm ngoái chúng ta đã tập trung tại đó, mình không nhớ số cụ thể, sẽ thông báo lại số nhà cho các bạn sau). Đề nghị đến đúng giờ.
+ Sau đó chúng ta sẽ đến thăm Thầy và Cô và mời Thầy Cô cùng đi ăn trưa với lớp.
- Buổi trưa: Tổ chức liên hoan tại tầng 11 của khách sạn - cạnh rạp chiếu phim Công Nhân - đường Cầu Đất với món ăn quê hương.
- Buổi chiều: Chương trình sẽ được tiếp tục và do tập thể 12A1 quyết định.
- Lưu ý: Quỹ lớp sau 1 năm hoạt động đã đến lúc phải bổ sung. Đề nghị các bạn nhớ mang theo kinh phí để đóng quỹ mới nhé.
Những bạn nào không có địa chỉ mail ở đây, nhờ các bạn biết số điện thoại thông báo tới tất cả các thành viên của 12A1 để cuộc họp lớp năm nay được đông đủ nhất.
Nhóm HP mong được gặp mặt tất cả các bạn.
Thay mặt nhóm
Tớ - Minh Huyền
Thứ Ba, 13 tháng 9, 2011
Thứ Bảy, 27 tháng 8, 2011
LAI RAI CHÉN RƯỢU GIANG HỒ
Tác giả: Huỳnh Ngọc Chiến
Núi hùng vĩ điệp trùng, cao phong tiếu bích vươn đến trời xanh, nhưng núi đẹp là nhờ mây. Sông mênh mông bát ngát, uốn khúc lượn lờ hay cuồng nộ thét gầm, nhưng sông linh là nhờ có giao long, thủy quái. Rừng bạt ngàn huyền bí nhưng rừng thâm u quyến rũ là nhờ có dị sĩ cao nhân. Khách hảo hán giang hồ phiêu bồng lang bạt mang bản chất hào sảng khoáng đạt một phần là nhờ rượu.
Nền văn hoá phương Đông không có một vị tửu thần như thần Dionysos trong thần thoại Hi Lạp, nhưng có lẽ chỉ ở phương Đông mới có một tửu đồ cuồng sĩ đời Tây Tấn tên là Lưu Linh ngông đến mức làm bài thơ Tửu đức tụng ca ngợi cái Đức của rượu, được lưu truyền ở đời, gây ảnh hưởng nhất định. Theo Tấn thư thì Lưu Linh, tự Bá Luân, quá ham mê uống rượu. Một hôm, vợ đập vỡ vò rượu, khóc bảo : “ Ông uống rượu quá nhiều, đó không phải là cái đạo nhiếp sinh, phải bỏ bớt đi ”. Lưu Linh nói “ Ta không thể tự cấm được, phải cầu quỉ thần lên để khấn nguyện, vậy phải đủ rượu thịt để làm lễ chứ !” Vợ nghe lời làm theo. Lưu Linh bèn qùi xuống khấn rằng :“ Thiên sinh Lưu Linh, Dĩ tửu vi danh, Nhất ẩm nhất hộc, Ngũ đẩu giải tinh, Phu nhơn chi ngôn, Thận bất khả thính (Trời sinh ra Lưu Linh, do uống rượu mà nối danh. Mỗi lần uống một hộc. Uống năm đẩu mới giải tỉnh. Lời của đàn bà nói, Xin cẩn thận đừng nghe ! )
Văn học Trung quốc qua bao thời đại không thiếu thơ văn ca ngợi rượu. Thậm chí rất nhiều. Thông thường người ta chia ra làm ba cách uông rượu : tục tửu, thường tửu và tiên tửu. Tục tửu là uống đến chỗ phóng đãng bừa bãi, không làm chủ được mình. Thường tửu là uống xong cho sảng khoái, uống chỉ vì thích uống mà thôi. Tiên tửu là uống rượu như một thứ trợ hứng để bàn về thi ca, nghệ thuật nhằm di dưỡng tinh thần. Đến Kim Dung thì chén rượu lại được điểm xuyến thêm một phần ý vị nữa : đó là chén rượu lãng mạn hào hùng giữa chốn giang hồ. Đối với cuộc sống rong ruỗi phiêu bạt của khách võ lâm, có thể trong buổi tiễn đưa hoặc buổi trùng lai thiếu tiếng đàn tiếng hát nhưng chắc chắn trong nỗi buồn li biệt hay trong niềm vui hội ngộ đó luôn luôn có rượu. Chung quanh chén rượu và ngay trong chén rượu có biết bao nhiêu tâm sự của muôn vạn mãnh đời. Khắp võ lâm, từ trà đình tửu quán cho đến chốn núi thẳm rừng sâu, hễ nơi đâu có mặt hảo hán giang hồ là y như nơi đó có rượu. Một điều đáng ghi nhận là trong tác phẩm Kim Dung, hầu như những nhân vật nào đam mê rượu cũng đều có tâm hồn hào sảng, phóng khoáng. Đó là một Tiêu Phong kiêu dũng, một Hồng Thất Công cương trực, một Lệnh Hồ Xung khoáng đạt, một Đan Thanh hào phóng v..v ... Bang chủ Hồng Thất Công do tính ham rượu và nhậu nhẹt nên bị Hoàng Dung dùng mẹo lừa để ông phải truyền tuyệt kĩ “Hàng long thập bát chưởng” cho Quách Tĩnh. Đoàn Dự khi lang bạt giang hồ tìm Vương Ngọc Yến, thấy Tiêu Phong ngồi uống rượu trên Tùng hạc lâu mà sinh cảm mến, cùng nhau uống rượu rồi kết làm huynh đệ. Đó là cách uống rượu hào sảng của khách anh hùng. Đoàn Dự dùng Thiếu trạch kiếm để tiết hết rượu ra khỏi người theo đầu ngón tay út mới có thể đối ẩm với “đại tửu ... lâm cao thủ “ là Tiêu Phong. Đó là cách uống rượu đầy tiểu xảo mà Đoàn Dự vô tình phát hiện. Và chỉ trong tác phẩm Kim Dung mới có được “pha” uống rượu thú vị thế kia.
Nếu chén rượu đầy mưu trí của Lệnh Hồ Xung trên Trích Tiên tửu lâu khi lừa Điền Bá Quang để cứu Nghi Lâm làm người đọc vừa buồn cười vừa thán phục thì chén rượu thương đau của gã trên đỉnh Hoa Sơn lạnh buốt lại đắm chìm trong nỗi nhớ thương cô tiểu sư muội Nhạc Linh San, làm cho người đọc ngậm ngùi. Một tên dâm tặc vô hạnh như Điền Bá Quang lại biết lẻn vào hầm rượu của Trích Tiên tửu lâu đập vỡ hết gần hai trăm vò rượu quí hiếm trên thế gian, chỉ giữ lại hai vò để mang lên đỉnh Hoa Sơn cùng đối ẩm với Lệnh Hồ Xung, đã làm cho người đọc phát sinh hảo cảm, dù gã đã bị cả hai phe hắc bạch khinh bỉ là hạng “vô ác bất tác đích dâm tặc” ( tên dâm tặc không có điều ác nào mà không làm ). Thử hỏi trong đời có mấy ai được uống một chén rượu chí tình đáng cảm động thế kia ? Một chi tiết nhỏ đó thôi chắc cũng đủ khiến cho tửu đồ khắp thiên hạ cùng nhau nâng chén rượu tha thứ phần nào tội lỗi cho Điền Bá Quang ! Đâu phải chỉ trong tiếng đàn, tiếng tiêu cao nhã mới có thể tạo nên mối đồng cảm tri âm như Khúc Dương trưởng lão và Lưu Chính Phong, mà một chén rượu đục trong chốn giang hồ vẫn đủ sức để tạo nên mối tình tri ngộ giữa một người mang tiếng bại hoại và một môn đồ phe chính giáo. Cái chân tâm trong chỗ giao tình vẫn luôn luôn nằm bên kia âm thanh cũng như luôn luôn nằm đằng sau chén rượu ! Rượu hay âm nhạc lúc đó chỉ là phương tiện để con người tìm gặp nhau ở một điểm nào đó trong chổ ý hợp tâm đầu. Khi Lệnh Hồ Xung tung chén rượu lên trời thành muôn ngàn giọt để cùng chia xẻ với quần hùng hắc đạo trên đỉnh Ngũ Bá cương, Kim Dung đã cực tả tính hào sảng của một gã tửu đồ giữa niềm thống khoái chân tình với hào kiệt giang hồ. Hình ảnh kiêu hùng của Hướng Vấn Thiên khi bị trói đôi tay mà vẫn trầm tĩnh ngồi uống rượu trong lương đình giữa vòng vây của hai phe hắc bạch, đã khiến Lệnh Hồ Xung trổi dậy hào khí, liều lĩnh chen vào ngồi đối ẩm để cùng xẻ chia hoạn nạn. Người đọc không ngạc nhiên vì sao sau này, khi Giáo chủ Nhật nguyệt thần giáo Nhậm Ngã Hành thống lĩnh giáo chúng vây Hoa Sơn để tiêu diệt Ngũ nhạc kiếm phái, đẩy Lệnh Hồ Xung vào thế đối địch, thì Hướng Vấn Thiên là người đầu tiên bạo dạn cùng uống với Lệnh Hồ Xung một chén rượu cuối cùng ngay tại đương trường trước khi chuẩn bị cho một trận huyết chiến sắp tới, dù biết rõ Nhậm Ngã Hành đang ngấm ngầm phẫn nộ. Rồi lần lượt các tay hào kiệt khác trong Nhật nguyệt thần giáo cũng can đảm bước ra cạn chén với Lệnh Hồ Xung dù trong thâm tâm họ cũng hiểu rằng điều đó sẽ gây thịnh nộ cho Giáo chủ và cái giá phải trả đằng sau chén rượu kia có khi là cái chết. Biết bao nhiêu hào khí hùng tâm chứa chan trong một chén rượu nồng !. Lệnh Hồ Xung kết giao hào kiệt giang hồ chủ yếu bằng rượu. Gặp bất kì người nào sành rượu và thích uống rượu là giao tình nẩy nở. Đối với Lệnh Hồ Xung dường như không có chính hay tà mà chỉ có rượu ngon hay dỡ và nhất người nâng chén rượu cùng uống có đáng mặt hảo hán để giao kết hay không mà thôi. Lúc đó thì ân oán thị phi đều có thể hoà tan trong chén rượu chân tình.
Nếu chén rượu của Lệnh Hồ Xung đầy tính lãng mạn thì chén rượu của Tiêu Phong lại rất mực hào hùng. Khi uống rượu vào những giây phút quyết định tư sinh thì chén rượu của Lệnh Hồ Xung vẫn mang chất khoái hoạt phiêu bồng còn chén rượu của Tiêu Phong lại tràn đầy hào khí ! Tại Tụ Hiền trang, trước khi cùng quần hùng quyết đấu, Tiêu Phong vẫn cùng họ uống rượu để tuyệt tình. Chén rượu ném đi, giao tình đứt đoạn và cuộc chơi sinh tử bắt đầu. Nhưng đến chén rượu trên chùa Thiếu Lâm mới thật chan chứa hùng tâm.
Khi tình cờ bị vây hã m trên đỉnh Thiếu Thất bởi vô số những cao thủ cự phách, Tiêu Phong trong cảnh lâm vào tuyệt địa vẫn hiên ngang uống rượu. Khi đánh lùi một lúc cả ba đại cao thủ Du Thản Chi, Đinh Xuân Thu, Mộ Dung Phục, khiến Tiêu Phong hào khí ngất trời, ông hô vệ sĩ mang mấy túi rượu uống cạn một lúc gần hai mươi cân, rồi ngõ lời cùng Đoàn Dự : ”Huynh đệ, ta và người hôm nay đồng sinh tử, thật không uổng phí một phen kết nghĩa, sống cũng tốt mà chết cũng tốt, chúng ta cùng nhau uống một trận cho thật thống khoái ! “. (Huynh đệ, nễ ngã sinh tư vi cộng, bất uổng liễu kết nghĩa nhất trường, tư dã bã i, hoạt dã bã i, đại gia thống thống khoái khoái đích hát tha nhất
trường ! ) Hào khí bức người của Tiêu Phong khiến nhà sư Hư Trúc cảm kích quên hết giới luật thanh qui, cùng nhau cạn chén. Cảnh tượng một tay đại hào kiệt là Tiêu Phong cùng anh chàng đồ gàn Đoàn Dự và nhà sư Hư Trúc làm lễ giao bái và uống rượu ngay trong vòng gươm đao trùng điệp để chuẩn bị mở một trường đại sát thật láng lai hào khí của võ lâm, khiến cho người đọc cảm thấy hùng tâm hứng khởi như đọc Sư kí Tư Mã Thiên đến đoạn Thái tử Đan tiễn Kinh Kha qua sông Dịch. Đó không phải chén rượu liều lĩnh của bọn dũng phu cùng đường, mà là chén rượu của những tay hào tuấn xem cái chết như là “một cõi đi về “ khi đã cảm nhận trọn vẹn được tấm chân tình của nghĩa đệ huynh ! Sống ở nhân gian mà có được một người tri kỉ thì có chết đi cũng không đến nỗi uổng phí bình sinh ! Uống rượu hào hùng đến trình hạn ấy mới là chỗ mà thơ Lý Hạ gọi là Chân thị Kinh Kha nhất phiến tâm (đó mới thực là tấm lòng của Kinh Kha).
Nhưng uống rượu như Tiêu Phong hay Lệnh Hồ Xung cũng chỉ là cách uống rượu hào hùng thống khoái của hảo hán giang hồ, mà cách uống rượu của Đan Thanh tiên sinh - đệ tứ trang chủ Cô sơn Mai trang - hay Tổ Thiên Thu mới đúng là hạng tửu đồ thượng thừa sành điệu. Người đọc ắt hẵn phải thâm tạ Kim Dung đã tặng cho đời những trang tuyêt bút về rượu. Uống nào phải dùng chén ấy. Chén ngọc hay chén lưu li làm rượu nổi thêm màu sắc [1], chén sừng tê làm rượu thêm hương vị. Uống rượu bồ đào phải dùng chén dạ quang [2], vì khi rót vào chén dạ quang thì rượu bồ đào sẽ có màu đỏ như máu, khiến cho quân sĩ ngoài biên tái uống vào thêm hùng khí chiến đấu. Uống rượu Thiệu hưng trạng nguyên hồng phải dùng chén cổ đời Bắc tống. Uống rượu Lê Hoa phải dùng chén Phỉ Thúy. Các quán rượu tại Hàng Châu thường treo cờ xanh trước tiệm rượu để ánh sáng chiếu màu xanh vào chén rượu Lê hoa như màu phỉ thuý [3 ]v.v... Thử hỏi mấy ai đọc Đường thi mà có thể cảm nhận ra chỗ tận diệu trong lời thơ thế kia, nếu như không có những “nhà tửu học ” như Tổ Thiên Thu ? Tổ Thiên Thu phân tích về rượu làm ta nhớ lại lão ăn mày trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân bình phẩm về trà. Họ đều là những nghệ sĩ tài hoa trong làng trà làng rượu. Với Đan Thanh và Tổ Thiên Thu thì uống rượu đã trở thành một loại nghệ thuật. Uống rượu đến mức đó là gần như nâng rượu lên thành Tửu đạo.
Đáng tiếc thay, ở phương Đông, cái tạm gọi là Tửu đạo đó lại không được lịch sử phát triển thành một trào lưu như Trà đạo. Có lẽ vì nó giống như con dao hai lưỡi. Kẻ non nớt dùng nó ắt sẽ bị đứt tay. Tiên tửu chưa chắc đã thấy đâu mà tục tửu có thể đã ngập tràn trong thiên hạ ! Chén rượu ngày nay đã mang quá nhiều tục sắc. Tửu vị cho dẫu đã được nâng lên thêm mấy bậc nhưng tửu đạo lại bị hạ xuống thấp mấy tầng ! Giá như Tổ Thiên Thu và Đan Thanh sống lại ắt hẵn sẽ mời tất cả các tửu đồ thượng thừa trong thiên hạ đời nay tụ tập lại để giảng cho nghe về tửu đạo và cùng nhau lai rai một chén rượu giang hồ !
_______________
Chú giải của tác giả bài viết :
[1] Lưu li chung, hổ phách nùng ( chén đựng rượu bằng ngọc lưu li làm màu hổ phách của rượu thêm đậm đà - Thơ Lý Hạ ) hay Ngọc uyển thịnh lai hổ phách quang (chén ngọc làm sáng
thêm màu hổ phách của rượu - Thơ Lí Bạch )
[2 ] Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi ( Rượu Bồ đào rót chén dạ quang, Toan uống Tỳ bà dục lên đàng - Thơ Vương Hàn)
[3] Hồng tụ chức lăng khoa thị diêp, thanh kì cô tửu sấn Lê hoa ( Tay áo lụa hồng khoe lá thị, cờ xanh quán rượu ánh Lê hoa - Thơ Bạch Cư Dị)
Nền văn hoá phương Đông không có một vị tửu thần như thần Dionysos trong thần thoại Hi Lạp, nhưng có lẽ chỉ ở phương Đông mới có một tửu đồ cuồng sĩ đời Tây Tấn tên là Lưu Linh ngông đến mức làm bài thơ Tửu đức tụng ca ngợi cái Đức của rượu, được lưu truyền ở đời, gây ảnh hưởng nhất định. Theo Tấn thư thì Lưu Linh, tự Bá Luân, quá ham mê uống rượu. Một hôm, vợ đập vỡ vò rượu, khóc bảo : “ Ông uống rượu quá nhiều, đó không phải là cái đạo nhiếp sinh, phải bỏ bớt đi ”. Lưu Linh nói “ Ta không thể tự cấm được, phải cầu quỉ thần lên để khấn nguyện, vậy phải đủ rượu thịt để làm lễ chứ !” Vợ nghe lời làm theo. Lưu Linh bèn qùi xuống khấn rằng :“ Thiên sinh Lưu Linh, Dĩ tửu vi danh, Nhất ẩm nhất hộc, Ngũ đẩu giải tinh, Phu nhơn chi ngôn, Thận bất khả thính (Trời sinh ra Lưu Linh, do uống rượu mà nối danh. Mỗi lần uống một hộc. Uống năm đẩu mới giải tỉnh. Lời của đàn bà nói, Xin cẩn thận đừng nghe ! )
Văn học Trung quốc qua bao thời đại không thiếu thơ văn ca ngợi rượu. Thậm chí rất nhiều. Thông thường người ta chia ra làm ba cách uông rượu : tục tửu, thường tửu và tiên tửu. Tục tửu là uống đến chỗ phóng đãng bừa bãi, không làm chủ được mình. Thường tửu là uống xong cho sảng khoái, uống chỉ vì thích uống mà thôi. Tiên tửu là uống rượu như một thứ trợ hứng để bàn về thi ca, nghệ thuật nhằm di dưỡng tinh thần. Đến Kim Dung thì chén rượu lại được điểm xuyến thêm một phần ý vị nữa : đó là chén rượu lãng mạn hào hùng giữa chốn giang hồ. Đối với cuộc sống rong ruỗi phiêu bạt của khách võ lâm, có thể trong buổi tiễn đưa hoặc buổi trùng lai thiếu tiếng đàn tiếng hát nhưng chắc chắn trong nỗi buồn li biệt hay trong niềm vui hội ngộ đó luôn luôn có rượu. Chung quanh chén rượu và ngay trong chén rượu có biết bao nhiêu tâm sự của muôn vạn mãnh đời. Khắp võ lâm, từ trà đình tửu quán cho đến chốn núi thẳm rừng sâu, hễ nơi đâu có mặt hảo hán giang hồ là y như nơi đó có rượu. Một điều đáng ghi nhận là trong tác phẩm Kim Dung, hầu như những nhân vật nào đam mê rượu cũng đều có tâm hồn hào sảng, phóng khoáng. Đó là một Tiêu Phong kiêu dũng, một Hồng Thất Công cương trực, một Lệnh Hồ Xung khoáng đạt, một Đan Thanh hào phóng v..v ... Bang chủ Hồng Thất Công do tính ham rượu và nhậu nhẹt nên bị Hoàng Dung dùng mẹo lừa để ông phải truyền tuyệt kĩ “Hàng long thập bát chưởng” cho Quách Tĩnh. Đoàn Dự khi lang bạt giang hồ tìm Vương Ngọc Yến, thấy Tiêu Phong ngồi uống rượu trên Tùng hạc lâu mà sinh cảm mến, cùng nhau uống rượu rồi kết làm huynh đệ. Đó là cách uống rượu hào sảng của khách anh hùng. Đoàn Dự dùng Thiếu trạch kiếm để tiết hết rượu ra khỏi người theo đầu ngón tay út mới có thể đối ẩm với “đại tửu ... lâm cao thủ “ là Tiêu Phong. Đó là cách uống rượu đầy tiểu xảo mà Đoàn Dự vô tình phát hiện. Và chỉ trong tác phẩm Kim Dung mới có được “pha” uống rượu thú vị thế kia.
Nếu chén rượu đầy mưu trí của Lệnh Hồ Xung trên Trích Tiên tửu lâu khi lừa Điền Bá Quang để cứu Nghi Lâm làm người đọc vừa buồn cười vừa thán phục thì chén rượu thương đau của gã trên đỉnh Hoa Sơn lạnh buốt lại đắm chìm trong nỗi nhớ thương cô tiểu sư muội Nhạc Linh San, làm cho người đọc ngậm ngùi. Một tên dâm tặc vô hạnh như Điền Bá Quang lại biết lẻn vào hầm rượu của Trích Tiên tửu lâu đập vỡ hết gần hai trăm vò rượu quí hiếm trên thế gian, chỉ giữ lại hai vò để mang lên đỉnh Hoa Sơn cùng đối ẩm với Lệnh Hồ Xung, đã làm cho người đọc phát sinh hảo cảm, dù gã đã bị cả hai phe hắc bạch khinh bỉ là hạng “vô ác bất tác đích dâm tặc” ( tên dâm tặc không có điều ác nào mà không làm ). Thử hỏi trong đời có mấy ai được uống một chén rượu chí tình đáng cảm động thế kia ? Một chi tiết nhỏ đó thôi chắc cũng đủ khiến cho tửu đồ khắp thiên hạ cùng nhau nâng chén rượu tha thứ phần nào tội lỗi cho Điền Bá Quang ! Đâu phải chỉ trong tiếng đàn, tiếng tiêu cao nhã mới có thể tạo nên mối đồng cảm tri âm như Khúc Dương trưởng lão và Lưu Chính Phong, mà một chén rượu đục trong chốn giang hồ vẫn đủ sức để tạo nên mối tình tri ngộ giữa một người mang tiếng bại hoại và một môn đồ phe chính giáo. Cái chân tâm trong chỗ giao tình vẫn luôn luôn nằm bên kia âm thanh cũng như luôn luôn nằm đằng sau chén rượu ! Rượu hay âm nhạc lúc đó chỉ là phương tiện để con người tìm gặp nhau ở một điểm nào đó trong chổ ý hợp tâm đầu. Khi Lệnh Hồ Xung tung chén rượu lên trời thành muôn ngàn giọt để cùng chia xẻ với quần hùng hắc đạo trên đỉnh Ngũ Bá cương, Kim Dung đã cực tả tính hào sảng của một gã tửu đồ giữa niềm thống khoái chân tình với hào kiệt giang hồ. Hình ảnh kiêu hùng của Hướng Vấn Thiên khi bị trói đôi tay mà vẫn trầm tĩnh ngồi uống rượu trong lương đình giữa vòng vây của hai phe hắc bạch, đã khiến Lệnh Hồ Xung trổi dậy hào khí, liều lĩnh chen vào ngồi đối ẩm để cùng xẻ chia hoạn nạn. Người đọc không ngạc nhiên vì sao sau này, khi Giáo chủ Nhật nguyệt thần giáo Nhậm Ngã Hành thống lĩnh giáo chúng vây Hoa Sơn để tiêu diệt Ngũ nhạc kiếm phái, đẩy Lệnh Hồ Xung vào thế đối địch, thì Hướng Vấn Thiên là người đầu tiên bạo dạn cùng uống với Lệnh Hồ Xung một chén rượu cuối cùng ngay tại đương trường trước khi chuẩn bị cho một trận huyết chiến sắp tới, dù biết rõ Nhậm Ngã Hành đang ngấm ngầm phẫn nộ. Rồi lần lượt các tay hào kiệt khác trong Nhật nguyệt thần giáo cũng can đảm bước ra cạn chén với Lệnh Hồ Xung dù trong thâm tâm họ cũng hiểu rằng điều đó sẽ gây thịnh nộ cho Giáo chủ và cái giá phải trả đằng sau chén rượu kia có khi là cái chết. Biết bao nhiêu hào khí hùng tâm chứa chan trong một chén rượu nồng !. Lệnh Hồ Xung kết giao hào kiệt giang hồ chủ yếu bằng rượu. Gặp bất kì người nào sành rượu và thích uống rượu là giao tình nẩy nở. Đối với Lệnh Hồ Xung dường như không có chính hay tà mà chỉ có rượu ngon hay dỡ và nhất người nâng chén rượu cùng uống có đáng mặt hảo hán để giao kết hay không mà thôi. Lúc đó thì ân oán thị phi đều có thể hoà tan trong chén rượu chân tình.
Nếu chén rượu của Lệnh Hồ Xung đầy tính lãng mạn thì chén rượu của Tiêu Phong lại rất mực hào hùng. Khi uống rượu vào những giây phút quyết định tư sinh thì chén rượu của Lệnh Hồ Xung vẫn mang chất khoái hoạt phiêu bồng còn chén rượu của Tiêu Phong lại tràn đầy hào khí ! Tại Tụ Hiền trang, trước khi cùng quần hùng quyết đấu, Tiêu Phong vẫn cùng họ uống rượu để tuyệt tình. Chén rượu ném đi, giao tình đứt đoạn và cuộc chơi sinh tử bắt đầu. Nhưng đến chén rượu trên chùa Thiếu Lâm mới thật chan chứa hùng tâm.
Khi tình cờ bị vây hã m trên đỉnh Thiếu Thất bởi vô số những cao thủ cự phách, Tiêu Phong trong cảnh lâm vào tuyệt địa vẫn hiên ngang uống rượu. Khi đánh lùi một lúc cả ba đại cao thủ Du Thản Chi, Đinh Xuân Thu, Mộ Dung Phục, khiến Tiêu Phong hào khí ngất trời, ông hô vệ sĩ mang mấy túi rượu uống cạn một lúc gần hai mươi cân, rồi ngõ lời cùng Đoàn Dự : ”Huynh đệ, ta và người hôm nay đồng sinh tử, thật không uổng phí một phen kết nghĩa, sống cũng tốt mà chết cũng tốt, chúng ta cùng nhau uống một trận cho thật thống khoái ! “. (Huynh đệ, nễ ngã sinh tư vi cộng, bất uổng liễu kết nghĩa nhất trường, tư dã bã i, hoạt dã bã i, đại gia thống thống khoái khoái đích hát tha nhất
trường ! ) Hào khí bức người của Tiêu Phong khiến nhà sư Hư Trúc cảm kích quên hết giới luật thanh qui, cùng nhau cạn chén. Cảnh tượng một tay đại hào kiệt là Tiêu Phong cùng anh chàng đồ gàn Đoàn Dự và nhà sư Hư Trúc làm lễ giao bái và uống rượu ngay trong vòng gươm đao trùng điệp để chuẩn bị mở một trường đại sát thật láng lai hào khí của võ lâm, khiến cho người đọc cảm thấy hùng tâm hứng khởi như đọc Sư kí Tư Mã Thiên đến đoạn Thái tử Đan tiễn Kinh Kha qua sông Dịch. Đó không phải chén rượu liều lĩnh của bọn dũng phu cùng đường, mà là chén rượu của những tay hào tuấn xem cái chết như là “một cõi đi về “ khi đã cảm nhận trọn vẹn được tấm chân tình của nghĩa đệ huynh ! Sống ở nhân gian mà có được một người tri kỉ thì có chết đi cũng không đến nỗi uổng phí bình sinh ! Uống rượu hào hùng đến trình hạn ấy mới là chỗ mà thơ Lý Hạ gọi là Chân thị Kinh Kha nhất phiến tâm (đó mới thực là tấm lòng của Kinh Kha).
Nhưng uống rượu như Tiêu Phong hay Lệnh Hồ Xung cũng chỉ là cách uống rượu hào hùng thống khoái của hảo hán giang hồ, mà cách uống rượu của Đan Thanh tiên sinh - đệ tứ trang chủ Cô sơn Mai trang - hay Tổ Thiên Thu mới đúng là hạng tửu đồ thượng thừa sành điệu. Người đọc ắt hẵn phải thâm tạ Kim Dung đã tặng cho đời những trang tuyêt bút về rượu. Uống nào phải dùng chén ấy. Chén ngọc hay chén lưu li làm rượu nổi thêm màu sắc [1], chén sừng tê làm rượu thêm hương vị. Uống rượu bồ đào phải dùng chén dạ quang [2], vì khi rót vào chén dạ quang thì rượu bồ đào sẽ có màu đỏ như máu, khiến cho quân sĩ ngoài biên tái uống vào thêm hùng khí chiến đấu. Uống rượu Thiệu hưng trạng nguyên hồng phải dùng chén cổ đời Bắc tống. Uống rượu Lê Hoa phải dùng chén Phỉ Thúy. Các quán rượu tại Hàng Châu thường treo cờ xanh trước tiệm rượu để ánh sáng chiếu màu xanh vào chén rượu Lê hoa như màu phỉ thuý [3 ]v.v... Thử hỏi mấy ai đọc Đường thi mà có thể cảm nhận ra chỗ tận diệu trong lời thơ thế kia, nếu như không có những “nhà tửu học ” như Tổ Thiên Thu ? Tổ Thiên Thu phân tích về rượu làm ta nhớ lại lão ăn mày trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân bình phẩm về trà. Họ đều là những nghệ sĩ tài hoa trong làng trà làng rượu. Với Đan Thanh và Tổ Thiên Thu thì uống rượu đã trở thành một loại nghệ thuật. Uống rượu đến mức đó là gần như nâng rượu lên thành Tửu đạo.
Đáng tiếc thay, ở phương Đông, cái tạm gọi là Tửu đạo đó lại không được lịch sử phát triển thành một trào lưu như Trà đạo. Có lẽ vì nó giống như con dao hai lưỡi. Kẻ non nớt dùng nó ắt sẽ bị đứt tay. Tiên tửu chưa chắc đã thấy đâu mà tục tửu có thể đã ngập tràn trong thiên hạ ! Chén rượu ngày nay đã mang quá nhiều tục sắc. Tửu vị cho dẫu đã được nâng lên thêm mấy bậc nhưng tửu đạo lại bị hạ xuống thấp mấy tầng ! Giá như Tổ Thiên Thu và Đan Thanh sống lại ắt hẵn sẽ mời tất cả các tửu đồ thượng thừa trong thiên hạ đời nay tụ tập lại để giảng cho nghe về tửu đạo và cùng nhau lai rai một chén rượu giang hồ !
_______________
Chú giải của tác giả bài viết :
[1] Lưu li chung, hổ phách nùng ( chén đựng rượu bằng ngọc lưu li làm màu hổ phách của rượu thêm đậm đà - Thơ Lý Hạ ) hay Ngọc uyển thịnh lai hổ phách quang (chén ngọc làm sáng
thêm màu hổ phách của rượu - Thơ Lí Bạch )
[2 ] Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi ( Rượu Bồ đào rót chén dạ quang, Toan uống Tỳ bà dục lên đàng - Thơ Vương Hàn)
[3] Hồng tụ chức lăng khoa thị diêp, thanh kì cô tửu sấn Lê hoa ( Tay áo lụa hồng khoe lá thị, cờ xanh quán rượu ánh Lê hoa - Thơ Bạch Cư Dị)
Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2011
Tình yêu thầm lặng (Silence of Love)
Tiếp theo chủ đề về tình yêu thương của cha mẹ .
Thứ Bảy, 13 tháng 8, 2011
EM BÉ BÁN DIÊM
Hans Christian Andersen
Rét dữ dội. Tuyết rơi. Trời đã tối hẳn. Đêm nay là đêm giao thừa.
Giữa trời đông giá rét, một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối.
Lúc ra khỏi nhà em có đi giày vải, nhưng giày vải phỏng có tác dụng gì kia chứ !
Giày ấy của mẹ em để lại, rộng quá, em đã liên tiếp làm văng mất cả hai chiếc khi em chạy qua đường, vào lúc hai chiếc xe ngựa đang phóng nước đại.
Chiếc thứ nhất bị xe song mã nghiến, rồi dính theo tuyết vào bánh xe; thế là mất hút. Còn chiếc thứ hai, một thằng bé lượm được, cười sằng sặc, đem tung lên trời. Nó còn nói với em bé rằng nó sẽ giữ chiếc giày để làm nôi cho con chó sau này.
Thế là em phải đi đất, chân em đỏ ửng lên, rồi tím bầm lại vì rét.
Chiếc tạp dề cũ kỹ của em đựng đầy diêm và tay em còn cầm thêm một bao.
Em cố kiếm một nơi có nhiều người qua lại. Nhưng trời rét quá, khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em.
Suốt ngày em chẳng bán được gì cả và chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Em bé đáng thương, bụng đói cật rét, vẫn lang thang trên đường. Bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành từng búp trên lưng em, em cũng không để ý.
Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Chả là đêm giao thừa mà ! Em tưởng nhớ lại năm xưa, khi bà nội hiền hậu của em còn sống, em cũng được đón giao thừa ở nhà. Nhưng thần chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân leo quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắc nhiếc, chửi rủa.
Em ngồi nép trong một góc tường, giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi lại một chút.
Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em càng thấy rét buốt hơn.
Tuy nhiên em không thể nào về nhà nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đem về; nhất định là cha em sẽ đánh em.
Vả lại ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác, sát mái nhà và, mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở trên vách, gió vẫn thổi rít vào trong nhà. Lúc này đôi bàn tay em đã cứng đờ ra.
Chà ! Giá quẹt một que diêm lên mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ ? Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ ? Cuối cùng em đánh liều quẹt một que diêm. Diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biếc đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt.
Em hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng. Chà ! Ánh sáng kỳ diệu làm sao ! Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng.
Thật là dễ chịu ! Đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa; bên tay cầm diêm, cái ngón cái nóng bỏng lên. Chà ! Khi tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút mà được ngồi hàng giờ như thế, trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi, thì khoái biết bao!
Em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất. Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn. Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm; đêm nay, về nhà thế nào cũng bị cha mắng.
Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên. Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màn. Em nhìn thấu tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải trắng tinh, trên bàn bày toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kỳ diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi dĩa và mang cả dao ăn, phóng sết, cắm trên lưng, tiến về phía em bé.
Rồi... que diêm vụt tắt; trước mặt em chỉ còn là những bức tường dầy đặc và lạnh lẽo.
Thực tế đã thay thế cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, mà chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xoá, gió bấc vi vu và mất ngừơi khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm.
Em quẹt que diêm thứ ba. Bỗng em thấy hiện ra một cây thông Noel. Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây mà em đã được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong các tủ hàng, hiện ra trước mắt em bé. Em với đôi tay về phía cây... nhưng diêm tắt. Tất cả những ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời.
- Chắc hẳn có ai vừa chết, em bé tự nhủ, vì bà em, người hiền hậu độc nhất đối với em, đã chết từ lâu, trước đây thường nói rằng: "Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với thượng đế".
Em quẹt một que diêm nữa vào tường, một ánh sáng xanh tỏa ra xung quanh và em bé nhìn thấy rõ ràng là bà em đang mỉm cười với em.
- Bà ơi ! Em bé reo lên, cho cháu đi với ! Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây Noel ban nãy, nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này; trước kia, khi bà chưa về với thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao ! Dạo ấy bà đã từng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn cháu sẽ được gặp lại bà; bà ơi! cháu van bà, bà xin với Thượng Đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu.
Que diêm tắt phụt và ảo ảnh rực sáng trên khuôn mặt em bé cũng biết mất.
Thế là em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao. Em muốn níu bà em lại ! Diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày. Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa. Họ đã về với Thuợng đế.
Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà.
Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.
Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên tử thi em bé ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Mọi người bảo nhau: "Chắc nó muốn sưởi cho ấm!." Nhưng chẳng ai biết những cái kỳ diệu em đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm.
Giữa trời đông giá rét, một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối.
Lúc ra khỏi nhà em có đi giày vải, nhưng giày vải phỏng có tác dụng gì kia chứ !
Giày ấy của mẹ em để lại, rộng quá, em đã liên tiếp làm văng mất cả hai chiếc khi em chạy qua đường, vào lúc hai chiếc xe ngựa đang phóng nước đại.
Chiếc thứ nhất bị xe song mã nghiến, rồi dính theo tuyết vào bánh xe; thế là mất hút. Còn chiếc thứ hai, một thằng bé lượm được, cười sằng sặc, đem tung lên trời. Nó còn nói với em bé rằng nó sẽ giữ chiếc giày để làm nôi cho con chó sau này.
Thế là em phải đi đất, chân em đỏ ửng lên, rồi tím bầm lại vì rét.
Chiếc tạp dề cũ kỹ của em đựng đầy diêm và tay em còn cầm thêm một bao.
Em cố kiếm một nơi có nhiều người qua lại. Nhưng trời rét quá, khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em.
Suốt ngày em chẳng bán được gì cả và chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Em bé đáng thương, bụng đói cật rét, vẫn lang thang trên đường. Bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành từng búp trên lưng em, em cũng không để ý.
Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Chả là đêm giao thừa mà ! Em tưởng nhớ lại năm xưa, khi bà nội hiền hậu của em còn sống, em cũng được đón giao thừa ở nhà. Nhưng thần chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân leo quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắc nhiếc, chửi rủa.
Em ngồi nép trong một góc tường, giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi lại một chút.
Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em càng thấy rét buốt hơn.
Tuy nhiên em không thể nào về nhà nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đem về; nhất định là cha em sẽ đánh em.
Vả lại ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác, sát mái nhà và, mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở trên vách, gió vẫn thổi rít vào trong nhà. Lúc này đôi bàn tay em đã cứng đờ ra.
Chà ! Giá quẹt một que diêm lên mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ ? Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ ? Cuối cùng em đánh liều quẹt một que diêm. Diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biếc đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt.
Em hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng. Chà ! Ánh sáng kỳ diệu làm sao ! Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng.
Thật là dễ chịu ! Đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa; bên tay cầm diêm, cái ngón cái nóng bỏng lên. Chà ! Khi tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút mà được ngồi hàng giờ như thế, trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi, thì khoái biết bao!
Em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất. Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn. Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm; đêm nay, về nhà thế nào cũng bị cha mắng.
Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên. Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màn. Em nhìn thấu tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải trắng tinh, trên bàn bày toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kỳ diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi dĩa và mang cả dao ăn, phóng sết, cắm trên lưng, tiến về phía em bé.
Rồi... que diêm vụt tắt; trước mặt em chỉ còn là những bức tường dầy đặc và lạnh lẽo.
Thực tế đã thay thế cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, mà chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xoá, gió bấc vi vu và mất ngừơi khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm.
Em quẹt que diêm thứ ba. Bỗng em thấy hiện ra một cây thông Noel. Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây mà em đã được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong các tủ hàng, hiện ra trước mắt em bé. Em với đôi tay về phía cây... nhưng diêm tắt. Tất cả những ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời.
- Chắc hẳn có ai vừa chết, em bé tự nhủ, vì bà em, người hiền hậu độc nhất đối với em, đã chết từ lâu, trước đây thường nói rằng: "Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với thượng đế".
Em quẹt một que diêm nữa vào tường, một ánh sáng xanh tỏa ra xung quanh và em bé nhìn thấy rõ ràng là bà em đang mỉm cười với em.
- Bà ơi ! Em bé reo lên, cho cháu đi với ! Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây Noel ban nãy, nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này; trước kia, khi bà chưa về với thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao ! Dạo ấy bà đã từng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn cháu sẽ được gặp lại bà; bà ơi! cháu van bà, bà xin với Thượng Đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu.
Que diêm tắt phụt và ảo ảnh rực sáng trên khuôn mặt em bé cũng biết mất.
Thế là em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao. Em muốn níu bà em lại ! Diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày. Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa. Họ đã về với Thuợng đế.
Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà.
Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.
Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên tử thi em bé ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Mọi người bảo nhau: "Chắc nó muốn sưởi cho ấm!." Nhưng chẳng ai biết những cái kỳ diệu em đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm.
Thứ Năm, 11 tháng 8, 2011
MÙNG TÁM THÁNG BA
Nhân tháng Vu lan báo hiếu , Hưởng ứng lời kêu gọi nói lời yêu thương đến các bận sinh thành . Tôi xin chia sẻ với 12A1 bài viết tôi dâng tặng mẹ tôi vào ngày 8/3/2011 .
MÙNG TÁM THÁNG BA
Tháng Ba !
Hoa gạo đỏ rực ngày hội chùa Hương.
Hương xoan tím rắc nhẹ lối về quê nội.
Tháng ba, những rặng tre vàng cháy ngẩn ngơ dùng dằng chưa muốn tạm biệt mùa xuân.
Tháng Ba, bên hồ Hoàn Kiếm ngắm tháp rùa trầm mặc rêu phong.
Một ngọn lộc vừng hồng tươi nõn nà long lanh trong mưa bụi sà sát mặt hồ.
Thời tiết thật đẹp, trời se lạnh. Người đi dạo ven hồ có thể mặc áo khoác nhẹ đi miên man dưới những hàng cây. Bỗng mắt bắt gặp một cậu choai mặc áo sơ mi chim cò ôm một bó hoa hồng đẹp đến mê li. Chợt giật mình : hôm nay mùng Tám tháng Ba.
Vô tình tôi ngồi ngay dưới chân Tháp Bút. Ngọn bút thẳng tắp của sỹ phu Bắc Hà viết ba chữ tả thanh thiên như lời khẳng định và ngợi ca quân tử. Bốn trăm năm trôi qua sau ngày dựng Tháp Bút và một trăm năm mươi năm thế giới đấu tranh cho nữ quyền, con cháu của Hai Bà Trưng trên mảnh đất tươi đẹp này sao vẫn chưa dựng được một ngọn tháp tôn vinh phụ nữ nhỉ?
Lúc này đây, bên hồ Hoàn Kiếm - mảnh đất hội tụ hồn thiêng sông núi, tôi thèm được vượt 1700km về Sài Gòn với mẹ thế! Tôi nghĩ về Mẹ tôi - cô giáo của thời chiến tranh chống Mỹ…
Những ngày bố đi B , một mình mẹ nuôi hai con nhỏ dại. Lên ba tuổi tôi đã bệnh tật , hết hen suyễn rồi đến chảy máu kéo dài, toàn bệnh nan y, thập tử nhất sinh. Một năm đến sáu tháng tôi nằm bệnh viện. Phải! Chỉ mình mẹ vừa làm mẹ, vừa làm cha vào cái thời đói nghèo phả hơi thở thường trực vào mỗi con người. Mẹ vẫn hoàn thành công việc của một nhà giáo và vẫn lo cho chúng tôi không phải tủi hổ với các anh em họ và bạn bè cùng lứa. Tôi luôn luôn tự hỏi, sao mẹ có thể có nhiều nghị lực để làm nhiều việc đến thế mà vẫn cười vui và hy vọng, mà vẫn yêu người, yêu nghề, vẫn là cô giáo dạy Văn giỏi của Thành phố Hoa phượng.
Bao năm trời mẹ loay hoay kiếm thêm nghề phụ để thêm vào chút tiền còm mua gạo mua rau. Ngày ngăn sông cấm chợ, phòng thuế giăng khắp đường. Và bắt bớ, tịch thu, mắng mỏ. Sao cái thời đó có nhiều con người có thể tự cho mình có quyền sỉ nhục người khác đến thế! Nào cô mậu dịch viên bán rau quả thực phẩm, bán gạo, anh thuế vụ, công an… Mẹ tôi, một cô giáo đã kiếm sống bằng nghề làm bấc bếp dầu và phải đạp xe mang đến từng hiệu tạp hóa rao bán đã đi qua cơ man nào sỉ nhục như thế. Đã có những lần mẹ bị thu hết cụt cả vốn liếng, bị gọi là “con buôn”. Mẹ cắn răng chịu đựng không dám để lộ ra mình là cô giáo. Cả một thời đại, cả một cỗ máy được sản sinh ra với chỉ một mục đích ngăn cản, hạ gục ý chí, niềm vui và khát vọng sống đẹp đẽ của những con người bình dị như mẹ tôi.
Đấy là bây giờ, khi đã lớn khôn tôi mới hiểu như vậy . Ngày đó anh em tôi vẫn được mẹ cho sống với những niềm vui trong sáng của trẻ thơ mà không hề vướng bận và biết đến sự đen tối của xã hội.
Phải! Mẹ tôi đã đưa anh em tôi đi qua những năm tháng gian khó nhất của một thời đại, một đất nước để trở thành những người như bây giờ .
Mẹ đã không ngần ngại và bình thản đi qua những đói nghèo, thiếu thốn bằng lòng can đảm của mẹ .
Ôi đất nước mến thương nghìn năm văn vật! Để có những Đinh Tiên Hoàng, Lý Thái Tổ, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ… Phải có những người mẹ lặng lẽ làm những việc đòi hỏi sự dũng cảm, bao dung và tình yêu lớn như vậy.
Ngày phụ nữ này, tôi viết ít dòng để dâng tặng mẹ tôi, một trong những người mẹ, người vợ, đã sống vượt qua những ngược ngạo, gian khó bằng lòng can đảm và nụ cười nhân hậu .
Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, 8/3/2011
Hoàng Linh Sơn
Thứ Ba, 9 tháng 8, 2011
THÔNG BÁO
THEO YÊU CẦU CỦA BẠN PHẠM THANH HƯƠNG
PHÂN NHÓM PHƯƠNG NAM HỌP MẶT VÀO LÚC 17H30 THỨ SÁU NGÀY 12/8/2011 TẠI NHÀ HÀNG HOA SỨ , SỐ 3A TÔN ĐỨC THẮNG , Q1.
PHÂN NHÓM PHƯƠNG NAM HỌP MẶT VÀO LÚC 17H30 THỨ SÁU NGÀY 12/8/2011 TẠI NHÀ HÀNG HOA SỨ , SỐ 3A TÔN ĐỨC THẮNG , Q1.
LÝ DO HỌP MẶT : BÀN VỀ CÁC HỌAT ĐỘNG CỦA CHI HỘI TRONG THỜI GIAN TỚI .
ĐỀ NGHỊ CÁC BẠN XÁC NHẬN VÀ ĐẾN THAM DỰ ĐÚNG GIỜ .
THÂN ÁI !
Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2011
CÁI NICK ĐÊM
(Mùa cô hồn – Kể chuyện ma – Bài viết này đăng trên Blog đại học của Chuti)
==============================================
Bíp… bíp… bíp …
Nó giật mình. Mặt còn ngơ ngác trong bóng đêm lạ. Ánh sáng nhờn nhợt phản chiếu từ màn hình chiếc máy tính sách tay đặt ở góc phòng làm Nó hiểu ra. Nó lấp sấp ra phía cái màn hình phát sáng duy nhất trong phòng.
“Chào bạn, tôi đang dõi theo bước đi của các bạn!” – Màn hình xuất hiện dòng thoại của Hoang… một cái nick lạ hay xuất hiện rất nhanh lúc nửa đêm. Ngắn gọn, lạnh lùng và bí hiểm. Thằng bạn Nó đùa: đó là nick của đứa bạn học với chúng, cô ấy mất lâu rồi, cái chết trẻ nghe nói cũng thương tâm, nay thi thoảng hiện về chuyên trò trong đêm với lớp.
… “Tôi đang dõi theo bước đi của các bạn”. Nó lẩm nhẩm đọc lại trong lúc hai bàn tay vẫn nhẹ lướt bàn phím tìm câu trả lời… Chợt có tiếng kẽo kẹt rờn rợn sau lưng. Nó dừng tìm kiếm, chân tay lạnh toát. Gai ốc lần sần gợn trên da Nó. Tóc gáy từ từ dựng lên cảm nhận có ánh mắt đêm đang lén nhìn Nó. “ Kẹt.ẹt.ẹt..”, cánh cửa gỗ miết tiếng dài hơn và từ từ mở ra… Nó nhắm mắt lại, cảm nhận rõ hơi khí lạnh tràn vào phòng, luồng ánh sáng nhờn nhợt lẻn qua khe cửa vội bám theo. “Ngoao..!!!”, tiếng kêu hoảng hốt của con mèo đen vút qua chân nó và mất hút trong đêm. Nó giật mình quay lưng lại bắt gặp ánh mắt lạnh lùng qua khe cửa gỗ vội vàng lẩn chốn. “Ai?” Nó hét lên và bước nhanh ra cửa. Bóng người phụ nữ tóc xõa gió đồi trung du cắt vội mảnh vườn và tan nhanh vào bóng tối….
Chân Nó ríu lại, gắng gượng… Nó lắc lắc cái đầu tự trấn an. Hít sâu chút khí se lạnh hương rừng khuya. Mặt ngước lên từ từ cảm nhận một thứ ánh sáng vàng nhợt trăng thu đêm. Nó giật mình lảo đảo lùi về phía sau. Trước mặt, hàng chục con người thẳng đứng lặng im, đầu thắt khăn tang trắng chằm chằm nhìn Nó…. Nó đứng chôn chân, mặt thất thần… Lại có tiếng động nhẹ đằng sau. Nó nín thở... Một bàn tay nhẹ nhàng lạnh toát đặt lên vai Nó. Giọng phụ nữ lạnh tanh: “Khi nhà có tang, các cây lâu niên trong vườn đều phải chít khăn trắng, kẻo sau này chúng sẽ chết…”. Nó từ từ quay đầu lại đón nhận...”Ối!” một lần nữa nỗi sợ hãi làm nó kêu lên... khuôn mặt người đàn bà rũ rượi trong bộ đồ vải sô trắng, tóc lòa xòa rối bù trong gió rừng đêm. Ánh sáng yếu ớt từ chiếc đèn nhỏ trên tay người đàn bà hắt lên, một gương mặt hốc hác, mắt trũng sâu thâm quầng, nước da trắng xanh, cái miệng đỏ lòm lạnh lùng mấp máy...
“ Diễn hả ! Nghe nói em ra viếng bác từ chiều. Chị mới xuống, sắp đến giờ động quan rồi, ta ra cho kịp” – Bà chị con dâu cả của ông bác miệng vẫn nhai trầu ngắn gọn thông báo… Nó lập cập, ngoan ngoãn bước theo…
Cũng chỉ vì cái gọi là chọn giờ, xem thầy gì đó mà giữa đêm khuya, cả cái làng vùng đồi trung du này phải thức giấc để đưa tiễn một người xấu số vừa rời xa cõi trần…Mọi người đến khá đông. Bóng đèn điện ắc qui le lói chẳng giúp Nó thấy rõ mặt người đi đám đêm khuya. Toàn người lạ với Nó. Các Bà trong hội người già đang múa gậy điệu chèo thuyền tiễn đưa tung hứng tiếng kèn đám ỉ eo. Nhiều cô gái bắt trước các bà, miệng đỏ lòm lóp chóp nhai trầu làm biến ảo khuôn mặt trắng bệch nước da con gái vùng trung du trong đêm tang tóc, lạnh lùng và rờn rợn… Thi thoảng ma quoái, tò mò ánh mắt sắc lẹm làm Nó liên tưởng tới cái nhìn sâu hút trong đêm rình mò phía sau cánh cửa gỗ lúc rồi. Hoang mang, Nó lùi lại phía sau…
Đoàn người bắt đầu lầm lũi chậm chạp, ủ rũ bám chiếc quan tài đỏ. Các bà trong hội người già ê a điệu tiễn đưa, mình mẩy uốn éo nhìn chẳng hợp với tuổi tác và khung cảnh nghi ngút khói hương ảm đạm dọc con đường ngoằn ngoèo vắt đồi heo hút.
Đi được nửa đường, chiếc quan tài đỏ bất thình lình dừng lại. Nó ngẩng mặt lên, thấy đoàn người tản ra từng nhóm nhỏ quanh quẩn hai bên đường. Cũng chẳng biết có phải do đường dài hay phọng tục mà nghe nói cả đoàn sẽ nghỉ chặng ở đây. Nó đi dọc lên phía trước, lướt qua từng nhóm, từng nhóm... Có tiếng thì thầm to nhỏ , những ánh mắt u buồn sắc lẹm ném theo, Nó thấy lành lạnh…
…Ngoao…. Ngoao… Meoo… Đoàn người giật bắn ! Tim Nó đập rộn, ánh mắt ngơ ngác sợ hãi. Mấy cậu thanh niên nhanh như cắt lao về phía chiếc quan tài đỏ. Các cụ ông khăn đóng áo dài ú ớ không ra hơi chỉ đạo cả đám đông. Các bà vung tay múa gậy loạn xạ xung quanh chiếc quan tài, miệng thiểu não đọc bùa chú… Một không khí hỗn độn lạ lùng và khó đoán…Sau liên hoàn các thao tác tâm linh ấy. Nó thấp thỏm nghe một số tiếng thở phào bên cạnh vài tiếng kêu ủng ẳng, gừ gừ của mấy con mèo ăn đêm xa dần…
Chiếc quan tài đỏ tiếp tục dẫn đoàn người tới một nghĩa trang qui hoạch lởm chởm mộ to, mộ nhỏ lẫn lộn. Cái nhìn Tây, cái ngước Đông tạo cho Nó cảm giác ghê ghê bởi những hương hồn thiếu tổ chức nơi đây. Nhiều bóng người nhanh nhảu lẩn quất vào đêm, len lỏi qua những nấm mộ lộn xộn… Chẳng mấy chốc, cả cái nghĩa trang rộng lớn, một bên dựa vào lưng đồi, phía kia trống vắng hun hút nhìn xuống một thung lũng sâu, đã lấp ló đầy những que hương cháy đỏ. Gió thu đêm miền trung du thổi nhẹ, hiu hiu lạnh. Nó rùng mình né tránh hàng trăm ánh mắt đỏ hoe mấp máy từ các ngôi mộ lúp xúp trong đêm.
Nó cô độc giữa không gian rờn rợn ấy. Đang miên man nghĩ về những âm hồn lạnh lẽo dưới kia, một luồng khí nóng bỗng cay xè phả vào người Nó. Mắt Nó nhanh nhắm ngiền lại, nhịp thở thấp thỏm trong tiếng hổn hển nức nở mỗi lúc một gần. Người Nó căng ra… một bàn tay lạnh ngắt nắm lấy Nó…
“Ra thắp hương cho Bác rồi về chú à!”- bà chị dâu họ nghèn nghẹn.
… Nó lại lặng lẽ theo đoàn người lầm lũi hướng về con đường cũ. Trời vẫn còn tối như muốn níu kéo lòng người trong tiếng nấc của bà chị và dáng đi lầm lũi vô hồn của ông anh họ. Nó cũng vậy, có gì đó níu chân. Nó dừng bước, quay lưng. Một rừng ánh mắt đỏ hoe, chớp chớp…Nó lướt một vòng, khắp khu nghĩa trang như lần cuối vĩnh biệt các hương hồn lạnh lẽo ấy… Nó nghẹn thở, căng mắt. Cuối nghĩa trang, khu giáp với thung lũng sâu hút, bóng một phụ nữ vẫn tha thướt, ẩn hiện trong tiết đêm về sáng. Một luồng khí lạnh khẽ khàng chạy khắp cơ thể Nó… Mùi hương âm khí cuộn tròn trong lồng ngực hút hồn. Chậm chạp, Nó vô cảm bước theo bóng người phụ nữ áo trắng xõa tóc đằng kia. Càng gần cái bóng, càng gần bờ thung lũng, Nó càng cảm nhận sự ám ảnh sắc lẹm heo hút trong tiếng rì rào từ các tán cây vờn vờn ngọn gió đêm lạnh nghe gờn gợn.
… Đến sát bờ vực, bóng áo trắng từ từ giang tay chỉ vào nấm mộ nhỏ chênh vênh trong đêm sâu hút của cái thung lũng. Qua ánh sáng mờ mờ phản chiếu từ bó hương trên tay người phụ nữ. Nó căng mắt gắng đọc hàng chữ trên tấm bia mộ lạnh lẽo ấy…
“… H..o…a…n…g…”
Một luồng gió mạnh thốc tới lạnh toát người. Nắm hương bùng cháy. Mái tóc xõa bị gió cuốn về sau. Ngước mắt nhìn lên… Nó hốt hoảng khi thấy một khuôn mặt phụ nữ mập mạp trắng ệch… Hai hố mắt đen ngòm sâu hoắm lặng im… Nó mất thăng bằng, chấp chới…Một cơn gió thung lũng khác ập tới lạnh ngắt, kéo xuống. Nó thoảng thốt kêu to cầu cứu: Ka tê hai sáu ơi !...
…Nó ngơ ngác, khắp người đầm đìa mồ hôi. Lấy tay bấm mạnh vào một bên đùi vừa bị rơi phịch khỏi giường…đau điếng. Nó bình tâm lại…
Đi về phía chiếc máy tính trên bàn, màn hình sáng còn hiển thị bài viết “Họ đã sống như thế” trên Blog. Nó mông lung nghĩ về mùa cúng cô hồn tháng 7, về người bạn xấu số của KT26. Chắc vẫn ấm áp bởi tấm lòng của gia đình, của bè bạn. Nhưng có lẽ không tránh khỏi phút chạnh lòng giữa không khí nghĩa trang mùa này cõi âm lạnh lẽo. Nó đặt bút lưu lại câu chuyện mộng mị này, như nén hương lòng cổ động bạn bè cùng sưởi ấm linh hồn người bạn đã mất.
HCMC – 08/8/2011 CHUTI
HOW TO TELL THE SEX OF A BIRD
This Is AMAZING!!!
Until now I never fully understood how to tell the Difference Between Male and Female Birds. I always thought it had to be determined surgically.
Until Now.
Which of The Two Birds Is a Female??? Below are Two Birds. Study them closely...See If You Can Spot Which of The Two Is The Female.
It can be done. Even by one with limited bird watching skills.
Send this to all of the men you know, who could do with a good laugh
and to all women who have a great sense of humor...............
and to all women who have a great sense of humor...............
Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011
Má, con và…
Mùa Vu Lan xin gửi tới các bạn bài viết của tác giả Nguyễn Ngọc Tư . Mong các bạn 12A1 thưởng thức và chia sẻ
Tôi nghĩ, đôi khi vô tình tôi làm má buồn.
Như chiều qua, tôi nói lúc này tóc con bị rụng quá trời, coi trên internet người ta dạy mua thuốc này thuốc này sẽ bớt. Hay hôm kia khi giỡn với nhóc con, phát hiện ra lưỡi nó bị nấm đóng dày, tôi mở máy tính, xong gật gù, trên mạng người ta kêu mua thuốc x thuốc y, hoặc hái lá a, lá b giã lấy nước rơ lưỡi, nhóc sẽ khỏi.
Có lần tôi khoe vài bí quyết nấu ăn, cách chọn gà ngon, má ngạc nhiên, mèn ơi trên mạng có đủ thứ hết trơn hả ? Tôi cười khoái chí, gì cũng có má à, trên trời dưới đất, muốn biết gì cứ gõ vài ba chữ là mạng cho mình biết tuốt. Má nói ngộ quá, cái mạng là cái gì mà hay dữ ta. Giọng má không một chút ngậm ngùi nhưng bỗng dưng tôi nghĩ má ngậm ngùi.
Là vì má đang ở bên tôi, nhưng khi bối rối và ngơ ngác tôi đã không hỏi má. Sống bảy chục năm dài, trải qua bao nhiêu biến cố, má vén khéo đảm đang, chèo chống gia đình nuôi nấng mấy chị em tôi khôn lớn, phải nói là má biết nhiều, rất nhiều. Nhưng tôi không hỏi má, tôi chạy tới internet, gọi “vừng ơi…”, và đôi lúc khoe khoang những kiến thức mà má đã “rành sáu câu” rồi.
Một phần ý nghĩa của mối quan hệ già – trẻ (hay má - con) là cho – nhận, dạy – học… nhưng giá trị đó đang ít nhiều thay đổi. Sự mất mát rất từ tốn không nhận biết ngay được, cho đến khi đủ lớn và sâu, người ta mới giật mình, sực nhớ ra lúc này mình nói bằng ngón tay nhiều hơn bằng miệng, nhìn màn hình máy tính hay điện thoại nhiều hơn nhìn người. Sực nhớ có thể má đã buồn, má sống nhiều nhưng những trải nghiệm mà má đang gìn giữ, tôi không ngó ngàng tới.
Như thể tôi là tôi khác, không phải con bé đen nhẻm hồi lên bảy lên mười, đi vào cuộc đời bằng cánh cửa do má mở, suốt ngày lẽo đẽo theo chân má, để hỏi má ơi cái kia để làm gì, má ơi cái này tại sao... Ngày tôi về nhà chồng, má không dám đi đâu, suốt ngày chờ bên điện thoại, vì tôi hay gọi về hỏi, má ơi kho cá bằng muối hay nước mắm, nấu canh chua bằng me hay bằng giấm, con lỡ làm cơm khét rồi, giờ biết làm sao ?
Hồi đó má ở xa chỗ tôi chừng mười lăm cây số, nhưng má chỉ cách tôi một hồi chuông điện thoại. Băn khoăn chút chút, nghi ngại chút chút, lo lắng chút chút… tôi lại nghĩ tới má. Và má luôn có câu trả lời. Như bà ngoại luôn có câu trả lời cho má. Như bà cố luôn có câu trả lời cho ngoại. Người ta cứ sống vậy, già rót đầy cho trẻ, đi trước dẫn đường cho đi sau, tưởng đâu nối tiếp hoài hoài.
Nhưng khi nền tảng ứng xử giữa người và người lung lay bởi quá nhiều phương tiện hiện đại, tôi cũng buông lơi bàn tay má. Ngụp lặn trong biển thông tin mà tôi tin với chúng, tôi sẽ xử lý tốt mọi tình huống xảy ra với cuộc đời mình. Tôi quên, má không biết nơi lạnh nhất vũ trụ nhưng má có nhiều kinh nghiệm nuôi trẻ con lớn mau. Má không biết cách diệt virus máy tính nhưng bẫy chuột là số một. Má không biết viết blog nhưng nấu ăn rất ngon. Nhưng tôi quên. Má, như những người già khác, đôi lúc nào buồn tênh trong ý nghĩ mình đang sống thừa, tàn lụi không tăm tích.
Tôi còn giữ hình ảnh những người già nước Hàn xa xôi mà tôi đã từng gặp mặt. Những ông bà già buồn rượi, lặng lẽ. Vật vờ như bóng, lắt lay như khói. Anh bạn của tôi nói đất nước anh càng phát triển càng hiện đại thì người già càng cô độc, hai thế hệ già – trẻ hầu như không còn chuyện gì chung để nói với nhau. Khi chụp ảnh những gương mặt sầu muộn đó, tôi luôn nhớ tới má, thầm so sánh và khoái chí vì má gọn gàng lanh lợi hơn họ, má tươi tắn vui vẻ hơn họ, dù má nghèo, thiếu thốn hơn họ.
Nhưng giờ tôi biết má cũng buồn, bởi nhiều lúc tôi bỏ bà một mình ở nơi cũ, thời gian cũ để một mình tôi đi vào thế giới ảo đầy quyến rũ. Không cần nỗi lực lớn nào, không cần với tay cao, cũng có thể hái được trái. Nó sẵn sàng xoa dịu, đưa ra những lời khuyên khi tôi than vãn đầu gối tôi mỏi, con mắt tôi bỗng nhiên mờ, vùng thắt lưng nghe nhói, cái đầu đau...
Riêng trái tim thường chẳng hết đau nếu chỉ nhận được những lời an ủi thao thao, bạn hãy quên bạn hãy vui, phải này phải kia... nên có lần đem trái tim đau lên mạng thở than, chớ hề nhận được cái khăn lau nước mắt. Những lúc đó nhớ má quá …
Không biết, khi tôi đi rất xa và quay lại, thời gian còn cho má bao dung đứng chờ ?!!
Như chiều qua, tôi nói lúc này tóc con bị rụng quá trời, coi trên internet người ta dạy mua thuốc này thuốc này sẽ bớt. Hay hôm kia khi giỡn với nhóc con, phát hiện ra lưỡi nó bị nấm đóng dày, tôi mở máy tính, xong gật gù, trên mạng người ta kêu mua thuốc x thuốc y, hoặc hái lá a, lá b giã lấy nước rơ lưỡi, nhóc sẽ khỏi.
Có lần tôi khoe vài bí quyết nấu ăn, cách chọn gà ngon, má ngạc nhiên, mèn ơi trên mạng có đủ thứ hết trơn hả ? Tôi cười khoái chí, gì cũng có má à, trên trời dưới đất, muốn biết gì cứ gõ vài ba chữ là mạng cho mình biết tuốt. Má nói ngộ quá, cái mạng là cái gì mà hay dữ ta. Giọng má không một chút ngậm ngùi nhưng bỗng dưng tôi nghĩ má ngậm ngùi.
Là vì má đang ở bên tôi, nhưng khi bối rối và ngơ ngác tôi đã không hỏi má. Sống bảy chục năm dài, trải qua bao nhiêu biến cố, má vén khéo đảm đang, chèo chống gia đình nuôi nấng mấy chị em tôi khôn lớn, phải nói là má biết nhiều, rất nhiều. Nhưng tôi không hỏi má, tôi chạy tới internet, gọi “vừng ơi…”, và đôi lúc khoe khoang những kiến thức mà má đã “rành sáu câu” rồi.
Một phần ý nghĩa của mối quan hệ già – trẻ (hay má - con) là cho – nhận, dạy – học… nhưng giá trị đó đang ít nhiều thay đổi. Sự mất mát rất từ tốn không nhận biết ngay được, cho đến khi đủ lớn và sâu, người ta mới giật mình, sực nhớ ra lúc này mình nói bằng ngón tay nhiều hơn bằng miệng, nhìn màn hình máy tính hay điện thoại nhiều hơn nhìn người. Sực nhớ có thể má đã buồn, má sống nhiều nhưng những trải nghiệm mà má đang gìn giữ, tôi không ngó ngàng tới.
Như thể tôi là tôi khác, không phải con bé đen nhẻm hồi lên bảy lên mười, đi vào cuộc đời bằng cánh cửa do má mở, suốt ngày lẽo đẽo theo chân má, để hỏi má ơi cái kia để làm gì, má ơi cái này tại sao... Ngày tôi về nhà chồng, má không dám đi đâu, suốt ngày chờ bên điện thoại, vì tôi hay gọi về hỏi, má ơi kho cá bằng muối hay nước mắm, nấu canh chua bằng me hay bằng giấm, con lỡ làm cơm khét rồi, giờ biết làm sao ?
Hồi đó má ở xa chỗ tôi chừng mười lăm cây số, nhưng má chỉ cách tôi một hồi chuông điện thoại. Băn khoăn chút chút, nghi ngại chút chút, lo lắng chút chút… tôi lại nghĩ tới má. Và má luôn có câu trả lời. Như bà ngoại luôn có câu trả lời cho má. Như bà cố luôn có câu trả lời cho ngoại. Người ta cứ sống vậy, già rót đầy cho trẻ, đi trước dẫn đường cho đi sau, tưởng đâu nối tiếp hoài hoài.
Nhưng khi nền tảng ứng xử giữa người và người lung lay bởi quá nhiều phương tiện hiện đại, tôi cũng buông lơi bàn tay má. Ngụp lặn trong biển thông tin mà tôi tin với chúng, tôi sẽ xử lý tốt mọi tình huống xảy ra với cuộc đời mình. Tôi quên, má không biết nơi lạnh nhất vũ trụ nhưng má có nhiều kinh nghiệm nuôi trẻ con lớn mau. Má không biết cách diệt virus máy tính nhưng bẫy chuột là số một. Má không biết viết blog nhưng nấu ăn rất ngon. Nhưng tôi quên. Má, như những người già khác, đôi lúc nào buồn tênh trong ý nghĩ mình đang sống thừa, tàn lụi không tăm tích.
Tôi còn giữ hình ảnh những người già nước Hàn xa xôi mà tôi đã từng gặp mặt. Những ông bà già buồn rượi, lặng lẽ. Vật vờ như bóng, lắt lay như khói. Anh bạn của tôi nói đất nước anh càng phát triển càng hiện đại thì người già càng cô độc, hai thế hệ già – trẻ hầu như không còn chuyện gì chung để nói với nhau. Khi chụp ảnh những gương mặt sầu muộn đó, tôi luôn nhớ tới má, thầm so sánh và khoái chí vì má gọn gàng lanh lợi hơn họ, má tươi tắn vui vẻ hơn họ, dù má nghèo, thiếu thốn hơn họ.
Nhưng giờ tôi biết má cũng buồn, bởi nhiều lúc tôi bỏ bà một mình ở nơi cũ, thời gian cũ để một mình tôi đi vào thế giới ảo đầy quyến rũ. Không cần nỗi lực lớn nào, không cần với tay cao, cũng có thể hái được trái. Nó sẵn sàng xoa dịu, đưa ra những lời khuyên khi tôi than vãn đầu gối tôi mỏi, con mắt tôi bỗng nhiên mờ, vùng thắt lưng nghe nhói, cái đầu đau...
Riêng trái tim thường chẳng hết đau nếu chỉ nhận được những lời an ủi thao thao, bạn hãy quên bạn hãy vui, phải này phải kia... nên có lần đem trái tim đau lên mạng thở than, chớ hề nhận được cái khăn lau nước mắt. Những lúc đó nhớ má quá …
Không biết, khi tôi đi rất xa và quay lại, thời gian còn cho má bao dung đứng chờ ?!!
NGUYỄN NGỌC TƯ
Thứ Tư, 3 tháng 8, 2011
CON MỌT SÁCH
Hải phòng không chỉ có hoa phượng , hoa hậu , bánh đa cua, và cả đầu gấu ... Người Hải Phòng đã từng có 2 cửa hàng sách rất đẹp ngay cạnh nhà hát lớn. Tha thẩn trên mạng tìm được bài viết trên báo Lao động của tay này viết về cửa hàng sách đó. Xin gửi tới các bạn 12A1.
Hồi đầu những năm 70 thế kỷ XX, ở Hải Phòng có 2 người đàn bà nổi tiếng trong giới trí thức. Họ không viết văn, làm thơ, soạn nhạc hay cầm cọ vẽ, nhưng họ có quyền phân phát các tiểu thuyết lừng danh nhất, những tập thơ tuyệt vời nhất, các đĩa nhựa ghi 9 bản giao hưởng của Beethoven hoặc những kiệt tác (in lại) của các danh hoạ thuộc trường phái ấn tượng Pháp.
Hồi đầu những năm 70 thế kỷ XX, ở Hải Phòng có 2 người đàn bà nổi tiếng trong giới trí thức. Họ không viết văn, làm thơ, soạn nhạc hay cầm cọ vẽ, nhưng họ có quyền phân phát các tiểu thuyết lừng danh nhất, những tập thơ tuyệt vời nhất, các đĩa nhựa ghi 9 bản giao hưởng của Beethoven hoặc những kiệt tác (in lại) của các danh hoạ thuộc trường phái ấn tượng Pháp.
Họ là hai người bán sách tại cửa hàng sách trung tâm của Cty phát hành sách Hải Phòng. Một người bán sách ngoại văn, một người bán sách quốc văn. Họ được chiều nịnh, tôn vinh như hai bà hoàng (mà họ cũng kiêu và xinh đẹp thật!), vì người Hải Phòng rất mê đọc sách. Trừ loại lý luận - chính trị, kinh tế - khoa học, còn sách văn học thì được phân phối như áo may ô và dép nhựa Tiền Phong...
Trưởng phòng mới được quyền đọc “Bà Bovary”
Vì sách văn học là hàng mậu dịch phân phối, nên mua sách cũng phải có tiêu chuẩn. Phải là cấp từ trưởng phòng thuộc sở trở lên mới được mua cuốn “Bà Bovary” của văn hào Pháp Flaubert. Kẻ viết bài này một lần chứng kiến cuộc đối đầu âm thầm giữa ông lãnh đạo Cty phát hành sách Hải Phòng – một người giản dị, cục mịch như bức tường đất - với một cô gái dạng người não nhiều hơn ngực.
Không nao núng trước ánh mắt cầu xin của cô giáo trẻ dạy văn, ông đáp lại bằng cái nhìn thương hại nóng hổi và oai vệ phán như vị quan toà luận tội: “Phải ở vị trí như vậy, người ta mới đủ nhận thức để đánh giá được sự tha hoá đạo đức của tầng lớp thị dân tư sản!”. Thế nhưng, dù mới tốt nghiệp phổ thông, mặt vẫn mọc mụn trứng cá, tôi cũng mua được “Bà Bovary” vì có ông chú nguyên là giám đốc “Ba toa” (lò mổ gia súc Hải Phòng) viết cho cái giấy giới thiệu đi kèm nửa cân sườn lợn.
Phàm đã là hàng phân phối bao giờ cũng hiếm. Chẳng hạn, một năm cả miền Bắc có trên dưới 40 đầu sách văn học xuất bản. “Hot” nhất hồi ấy là sách văn học nước ngoài. Chỉ những tác giả, tác phẩm được đánh giá là “rõ ràng” mới được tuyển dịch (mà dịch thì rất cẩn thận). Các bậc thầy của chủ nghĩa hiện sinh như Jean Paul Satre, Albert Camus... chỉ tồn tại trong những sách phê bình. Dostoievsky và B.Pasternax cũng không được dịch, mặc dù nguyên bản tiếng Nga thì tràn ngập các kệ sách.
Ngoài vài truyện ngắn của O’Henry và Jack London, người miền Bắc không được đọc “Chùm nho nổi giận” hay “Âm thanh và cuồng nộ” (của John Steinback và William Faulkner – các nhà văn Mỹ). Thậm chí họ đã phải xem “Những bức thư của người đàn bà không quen biết” (Stefan Zweig) qua bản chép tay! Sách hiếm như vậy, cho nên chỉ có những người mê sách như là mê gái mới chịu khổ nhục để được chạm tay vào cuốn “Đồi gió hú” thuộc dạng tài liệu tham khảo nội bộ!
Mỗi khi nghe tin đồn sách mới về, những con mọt sách lại chạy vội ra hiệu sách, hí hửng chầu chực như chú mèo ngồi chồm chỗm trước chảo cá rán đậy kín, vì sách quý thường bị giấu dưới quầy. Họ nhận ra rằng muốn mua được sách, tìm đường đi vào trái tim của người bán sách dễ hơn bằng giấy giới thiệu. Thế nên, trước hết phải thật ngọt ngào, cầu tài cô bán sách bằng nụ cười, nhưng phải là một nụ cười không để họ nghĩ bạn phải đến bác sĩ răng (hồi đó không có tệ hối lộ tiền). Đấy là nghi lễ dọn đường bắt buộc cho sự thành công, vì lễ ở phương Đông đóng vai trò như luật ở phương Tây.
Sau đó hãy tỏ ra thật đáng thương, dằn vặt hơn cả đau răng nếu như không mua được sách. Một con mọt sách thời đó, tôi nhớ anh ta gầy mỏng đến nỗi không biết cơ thể có đủ chỗ để chứa hết lục phủ ngũ tạng hay không, đã thành công trong hầu hết vụ “mua-ăn xin” sách, vì dai như con đỉa đói.
Trong nhiều gia đình, sách được bày ở nơi kín đáo nhất, vì nó được giữ như của gia bảo. Con mọt sách kỵ nhất là cho mượn sách. Sách là thứ hồi môn ảo sang trọng để các chàng trai đem đi hỏi vợ. Có bà mẹ vợ (bán vàng chợ Sắt) hãnh diện nói về gia đình thông gia: “Nhà bên ấy nghèo, thế nhưng anh ấy là người đọc sách!”. Và cô dâu mới đã cậy nhờ mua tặng chồng một đống sách để thể hiện trọng lượng tình yêu của mình. Họ trở thành một gia đình hạnh phúc hoàn hảo: Chồng đọc sách, vợ có tiền!
Sách được tôn trọng như vậy, cho nên thành phố đầy đường những người đọc sách, ngốn sách như bò ngốn cỏ. Thanh niên ngày nay đánh giá nhau bằng đi con xe nào. Thanh niên ngày ấy hỏi nhau đã xem “Bông hồng vàng” của Pautovsky hay “Cây phong non trùm khăn đỏ” của Aimatov chưa? Họ sẽ thất vọng khi đối tác chưa đọc qua “Hội chợ phù hoa”. Ngay cả trong lúc bom rơi đạn nổ, sách vẫn nằm trong balô theo người thành phố về những miền quê sơ tán. Người ta vẫn đọc “Chiến tranh và hoà bình” dưới hầm trú ẩn, trong ánh đèn dầu phòng không.
Nghịch lý của sách
Năm 1975 - một cánh cửa mới của sách được mở. Trong đám những người miền Bắc vào Nam trở về với chiếc balô lủng lẳng cái khung xe đạp, đài bán dẫn, búpbê nhựa, có những người đi tìm sách. Họ kinh hoàng khi bắt gặp cảnh tượng sách được bày bán, được chồng đống từ mặt đất lên nóc nhà trên suốt con đường Calmette, Sài Gòn.
Không cần là cấp trưởng phòng, hay nở nụ cười cầu tài với cô bán sách, chỉ cần có tiền là mua được cả kho tàng thông tin đồ sộ của cả loài người, từ Thánh kinh đến “Tài liệu mật của Lầu Năm góc” được tiết lộ trên tờ New York Times, từ các tác giả đoạt giải văn chương Nobel đến những đại diện của mọi trường phái tư tưởng... Có vị đại uý công binh (tốt nghiệp Đại học GTVT miền Bắc) khi rút ra khỏi thành cổ Quảng Trị (năm 1971) đã liều chết cõng theo mình 60kg bộ “Đại từ điển Britania” trong một ngôi nhà cháy dở và gặp ở đây (chợ sách Calmette) gần một chục bộ tương tự.
Lần đầu tiên họ được đọc “Mật khải” của K.Gilbran, “Zarathustra đã nói như thế” của Nietzche, “Thiền và phân tâm zuki của Fromm, những cuốn sách học” của Suzuki và Fromm, các cuốn sách không chỉ mở cho họ thấy những chân trời thế giới mới, mà còn được in rất đẹp trên các trang giấy mịn và thơm như làn da trẻ thơ. Bây giờ họ không kháo nhau về “Cây phong non trùm khăn đỏ” nữa, mà hỏi nhau đã được đọc “Bác sĩ Zhivago” hay “Giờ thứ 25” chưa. Những tưởng bắt đầu thời đại của sách, một con mọt sách hí hửng nói chơi: “Loài người chỉ còn 3 loại: Những người sống, những người chết và những người đọc sách!”.
Thế nhưng, cánh cửa đổi mới càng mở, càng nhiều sách thì người đọc càng ít. Hoá ra cùng với sách vở, người ta còn phát hiện ra vô số niềm vui trần tục, mà trong chiến tranh chúng là vô nghĩa so với cuộc sống – cái chết: Ẩm thực, thời trang, du lịch, những môn thể thao mới mẻ như golf, tennis... Tất cả đều lên tiếng đòi “thị phần” của mình trong khoảng thời gian bất biến 24 giờ/ngày của đời người.
Đấy là chưa kể khát vọng làm giàu dâng cao ngùn ngụt, chúng nuốt chửng bao thời gian. Đặc biệt khi Internet xuất hiện, đổ thông tin vào đầu người với tốc độ gần bằng ánh sáng, thì sách tuột sâu ra khỏi vị trí thống trị tư tưởng con người. Sách không còn là tấm gương duy nhất quan trọng để con người soi vào đấy thấy thế giới, thấy chính mình. Đã thế, khi sách nhiều quá tràn ra vỉa hè, văn chương sọt rác xuất hiện trở thành sữa mẹ của một tầng lớp thanh niên, truyện tranh lên ngôi, truyện dịch ẩu như là “diệt”.
Khi con người đổ xô đi đào vàng, đồng đôla được tôn vinh thành giấy thông hành lên trời, thì những con mọt sách biến mất dần khỏi mặt đất như những chiếc cối xay gió của thế kỷ XVIII. Từ “con mọt sách” trở thành đồng nghĩa với “hâm”. Bà bán hàng vàng chợ Sắt bắt đầu sốt ruột hộ cô con gái và thấy tiếc thằng vai u thịt bắp hàng xóm ngày xưa nay là chủ hai mỏ than ở ngoài Quảng Ninh.
Vắng khách dập dìu, những cô bán sách bắt đầu già và xấu đi. Họ ngồi suốt ngày tỉa lại lông mày trong các nhà sách yên tĩnh như hồ nước của ngày hè nóng nực. Ông giám đốc mới của Cty phát hành sách Hải Phòng lặn lội vào Nam đi tìm mối hàng văn hoá phẩm, văn phòng phẩm để lấp đầy các kệ sách. Chỗ ngày xưa Hemingway và Remarque (nhà văn Đức) “ngồi”, thì nay chễm chệ những chiếc đồng hồ điện tử Nhật Bản, băng keo và tả pí lù. Từ đó, những cô bán sách đời mới bắt đầu giàu lên. Họ hỏi Remarque có phải là tiền Đức không?
Không thể võ đoán nói rằng ngày nay người ta đâm chém nhau nhiều vì không đọc sách. Nhưng rõ ràng rằng vắng sách, tâm hồn con người sẽ nghèo nàn, nhạt nhẽo đi, đầu óc con người sẽ thiếu đi sự sâu sắc vì văn hoá mạng là một thứ mì ăn liền. Chừng nào loài người còn sống, còn tồn tại sách. Những con mọt sách sẽ sống lại và phát triển, bởi đọc sách là nhu cầu tinh thần và niềm vui cao quý.
Hà Linh Quân
Thứ Tư, 27 tháng 7, 2011
GẶP GỠ THÁNG 7
Tháng 7 tớ dẫn 2 thằng Triển Chiêu nhà tớ về quê chơi Hè . Thông báo ý nguyện gặp các bạn một bữa cho Bằng (ch) . Thật bất ngờ tớ gặp được nhiều bạn quá . Một bữa tiệc rất vui và tình cảm ! Cảm ơn tất cả các bạn , đặc biệt là phó nháy Thanh mít.
Bắt đầu chương trình thi hoa hậu 12A1 (nháp) . Dự kiến thi chính thức sẽ có mặt đầy đủ các bạn nữ Hà Nội, Sài gòn và Hải phòng quê ta vào cuộc họp mặt tháng 11 năm nay .
Trưởng ban liên lạc Oanh giai đang chém
Người đẹp Dương kinh đang bắt đầu phần thi ứng xử
Đang thi mà có đứa cứ gắp
Hôm trước bình luận Ngọc Thủy sexy nên cu Phong ngồi ngắm em say mê
Các thí sinh đang giải lao
Chưa chấm thi xong mà tớ đã chơi võ say rồi
Tổng kết lại ai cũng là hoa hậu . Không bạn nào là ớ hậu
Hôm sau ngồi càphê với Minh Huyền. Tớ và Minh Huyền chộp được nhân vật bí hiểm của 12A1. Các bạn cứ thắc mắc lâu quá không gặp . Đây là chân dung Nữ doanh nhân của lớp.
Chúc các bạn 12a1 của tớ luôn vui khỏe !
Thân ái !
Hòang Linh Sơn
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)