Trang

Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2010

BẰNG HỮU


Nếu ai hỏi tôi có nhiều bằng hữu không ?
Không do dự tôi sẽ trả lời : Vâng có nhiều .
Và nếu ai hỏi tôi bằng hữu là gì ? Thật khó nêu ra một định nghĩa .
Nhưng không khó để tôi nói cảm nhận về  tình bằng hữu .

Bằng hữu
Như cổ nhân xưa Lưu Bình , Dương Lễ
Tiếng đàn Bá Nha rung lên run rẩy khi có Tử Kỳ
Văng vẳng đâu đây lời đau Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê
 “Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa “
Và nghe sóng Bạch Đằng Giang còn ngân vang tiếng hát bài ca bằng hữu qua những lần chiến thắng ngọai xâm.

Bằng hữu của tôi
Những chiều tan học cùng chờ nhau về trên con đường quen.
Rét mùa đông điếu thuốc hút chung .  Trận bóng trưa hè chia 2 phe Cầu tre - Ngã năm .
Là miếng sắn nóng bạn đưa buổi sáng đi học. Là Bài tóan , câu thơ và trang lưu bút .
Là chia sẻ suy nghĩ về con người , tình yêu , tri thức ,  thế giới quanh ta .

Bằng hữu của tôi
Cùng nhau đùa vui , cùng nhau cười khi bạn đi thi được giải .
Trong ước mơ ta không đơn độc vì có bạn bên cạnh cùng mơ .
Khi đau đớn . Ta có vòng tay bạn và những giọt nước mắt sẻ chia.
Và ta buồn , ly rượu nồng bạn sẽ uống cùng ta.
Tiếng bạn gọi lên đường ta không hề do dư .

Bằng hữu của tôi là cùng hy vọng cho bạn bè tiến bộ luôn đi trên con đường đã lựa chọn.
Là cùng thương những mảnh đời cô độc buồn đau , là cùng yêu bạn bè , quê hương xứ sở và  tổ quốc này .

Cuối cùng
Bằng hữu là thất vọng , là cay đắng khi bạn không cùng nhìn về một hướng – hướng của niềm tin yêu và hy vọng . Khi những người bạn mà ta  mong đợi không có những xúc cảm như chính ta mà còn lo lắng cho ta , khuyên bảo ta hãy hãy lạnh lùng hơn và biết sợ hãi hơn .
Thật buồn phải không ? Không sao đâu vì lẽ đó … chính bạn đang là bằng hữu đó !
Vì thế , nếu có bạn bè chia sẻ những xúc cảm vế tình bằng hữu , dấn thân làm bớt buồn đau, thất vọng , cùng nhân lên những niềm vui và ước mơ . Thì khi đó tình bằng hữu lai thăng hoa và đó là hy vọng. Mà hy vọng chính là ngọn lửa thắp sáng niềm tin – niềm tin của dấn thân và chia sẻ.
Tình bằng hữu thật giản đơn phải không bạn !

Linh Sơn 

Chủ Nhật, 26 tháng 12, 2010

Tặng các bạn xa quê

Tháng Mười Một,

Thương Về Những Ngày Nhể Bọng Con Rận Rồng

                                                                                                                                     Vũ Bằng

Tưởng là hết chuyện truyền kỳ, quả là lầm. Sang tháng một, lại có truyền kì về con cà cuống.
Có ai ở Bắc Việt vào đây cho hỏi thăm tháng một mấy năm nay ở Bắc Việt, trời có rét lắm không, mưa vẫn riêu riêu buồn như trước hay thời tiết vì ảnh hưởng bom đạn của Mỹ đã khác xưa? Nghe thấy nước bạn Mỹ xuất toàn lực ném những loại bom kinh khủng lắm, mà ném toàn bom nặng tới bảy trăm tấn có sức phá hoại ngang bom nguyên tử, mình ở đây thấy rợn cả tóc gáy lên, ấy thế mà không hiểu làm sao cứ nghe thấy người ta nói là Bắc Việt vẫn đánh và đánh dữ hơn cả lúc mới phát động chiến tranh là khác!
Thế thì là cái thớ gì? Ở dây, người ta cũng ném bom tiêu diệt quá khích, ai cũng bảo là thời tiết không như trước, mưa không đúng cữ mà nắng cũng ra ngoại lệ, thành ra mình cũng tưởng thời tiết Bắc Việt đổi thay, do đó lắm đêm nằm tưởng tượng, mình cứ ngỡ là Bắc Việt không còn mưa rét nữa mà có khi lại nóng nứt đá tan vàng cũng nên. Nghĩ như thế, thấy buồn; nhưng nằm nghĩ thêm một lúc mình lại cười muốn khóc. Bom không làm nhụt được người thì sao mà lại ảnh hưởng được đến trời?
Bảo rằng thuốc khai quang có thể làm cho người ta ngứa; đạn thối có thể làm cho người ta nghẹt mũi trước tiến bộ của văn minh khoa học; đạn cay có thể làm cho người ta nhức đầu khó chịu, nhưng bảo rằng bom mà thay đổi được thời tiết, có lẽ là chuyện mơ hồ bịa đặt.
Ấy, chính vì nghĩ dớ dẩn như thế mình mới thấy yên tâm hơn một chút.
Hơn thế, lại còn nghe thấy nói rằng những vùng bị bom, mười ba năm nữa không cày cấy, trồng trọt được cũng lại là loè nữa. Trái lại, có người quả quyết những chỗ bị bom cày như thế trồng trọt cày cấy lại tốt hơn, còn không khí ở những vùng bị bom nguyên tử ở Nhật tưởng đâu là bị ô uế đời đời nhưng chỉ mấy tháng sau thì lại sạch sẽ và trong vắt như thuở trước. Cây lại đâm hoa trổ lá, chim lại ca hát trên cành, thế thì cơn bom đạn qua rồi trời lại trong xanh, gió lại thổi, mây lại bay, cây lại nở ngành xanh ngọn, có hề gì đâu, như thiên hạ vẫn thường đồn đại ?!

Nước non là nước non trời
Ai chia đặng nước, ai dời đặng non

Không ai dời đặng non, không ai chia đặng nước, thế thì tháng một ở Bắc Việt, tất nhiên vẫn rét, mưa tháng một ở Bắc Việt tất nhiên vẫn riêu riêu. Và nghĩ đến như thế thì bảo không yêu Bắc Việt làm sao cho được?
Mưa rét thì khổ, khổ nhất cho người nghèo, nhưng biết như thế mà vẫn cứ yêu bởi vì cái mưa, cái rét ấy thông thường quá, vì chỉ có Bắc Việt mới có cái mưa cái rét ấy thôi. Ai đã xa nhà, trôi nổi ở một phương trời không có nước mắm, không có phở, tương tư phở và nước mắm thế nào thì ở giữa một thành phố khét lẹt hơi người, chói chan nắng lửa, người ta cũng nhớ mưa rét tháng một ở quê hương mình đến thế là cùng.

*
* *

Chập tối, thắp một ngọn đèn lên ăn cơm rồi uống một ngụm nước vối, quây quần lại với nhau nói chuyện, cái thú ấy kể đã êm đềm; nhưng nếu lại chống một cái gậy tre, đi qua vũng lội mà sang nhà hàng xóm bàn chuyện tầm phơ, cái thú ấy lại càng đậm đà hết sức.
Những cái gộc, những cành cây mót lại và chất đống ở đằng sau vựa thóc, lúc bấy giờ lấy ra đem chụm để cùng quây lại mà sưởi ấm, có một cái gì rất mờ ảo, thần tiên, làm cho người ta quên mệt nhọc, quên cả lo âu, quên luôn những buồn rầu về tiền nong công nợ. Ánh lửa bập bùng soi vào những bộ mặt nửa sáng nửa tối của những người ngồi nói chuyện. Thỉnh thoảng, nghe gió rào rào và nước lóc róc trên tàu ba tiêu, có người mới nhớ là bên ngoài mưa và rét. Ở trong này chén nước vối nóng làm ấm lòng người ta. Một ông vỗ vào đùi:
- Ờ, thằng Cún đâu nhỉ, tao có giấm mấy củ khoai trong bếp tro, về lấy sang đây, mau!
Có tối chỉ có một mẻ ngô rang mà khề khà ăn gần hết đêm. Lại có ông nhấm nháp một vài chén rượu với chả nhái, rung đùi tưởng chừng như có thể gãy cả thang giường vì ngon quá thể là ngon, ngon có thể chết ngay đi được.
Hồi kháng chiến, tôi đã từng sống ở những làng đồng chiêm và những buổi tối tháng một vẫn ngồi đốt lửa họp hội đồng như vậy. Họp chừng một tuần, thành ra nghiện. Nghiện chuyện của bà con lối xóm, nghiện nước vối, nghiện ngô rang, nghiện khoai lùi, và nghiện luôn cả cái lòng ưu ái đậm đà của những người hàng xóm nghèo nhưng ăn ở lúc nào cũng như bát nước đầy.
Ở đất đồng chiêm, khoảng giữa tháng mười, sau khi tát nước để làm vụ cấy, người nông dân gieo mạ trên những thửa ruộng xâm xấp nước. Buổi chiều, chắp hai tay sau lưng đi ra ruộng, vào trung tuần tháng một, ta đã thấy ngọn mạ dạt dào trước gió bấc. Qua màn mưa phùn tím nhạt, những ruộng mạ xanh hoa lí giải ra như những tấm thảm lưu li, chỗ đậm, chỗ nhạt, trông thật tài tình. Mạ lúc ấy cao chừng ba tấc, mỗi khi có gió chạy qua, rạt cả xuống rồi lại đứng lên, trông y như thể là các cô tiên đang múa.
Trông thấy mạ, người nông dân không những sướng mắt mà sướng cả lòng. Là vì lúc ấy họ cảm thấy đã hơi hơi “ăn chắc”; mai kia, họ sẽ nhổ mạ lên bó lại từng bó, xén bớt đầu lá để đem cấy lại, nhưng trước khi cấy lại, thường thường phải tát nước vào trong ruộng.
Chính lúc này nước lại khan, hồ ao lắm khi gần như cạn hết, người làm ruộng phải mất công tát từ những mương xa, nhiều khi phải cho nước chảy qua ba bốn thửa ruộng khác mới tới ruộng của mình. Ấy chính đôi khi tát nước như thế mà bắt được vài con cá nhỏ hay mấy con tôm càng, họ nhịn miệng không ăn, lại đem biếu vợ chồng người khách lạ tản cư về làng họ. Tội nghiệp, ông bà ấy bỏ cả nhà cả cửa mà đi…
Họ không nghĩ đến chính thân họ mà chỉ nghĩ thương đến người từ ở phương xa tới và đã biết bao nhiêu lần đi kiếm rau mồng tơi, mảnh bát về nấu canh, họ không quên hái thêm một mớ cho vợ chồng mình “ăn tạm”.

*
* *

Ở thị thành, phải nói thật là cái không khí yêu thương, ưu ái đó không có mấy. Tôi nhớ những đêm tháng một hồi còn bé, cứ độ tám giờ tối thì nhà nào nhà nấy đóng kín cửa lại ở trong nhà với nhau, ít có người nọ đến thăm người kia, ít có đốt lửa sưởi với nhau và cũng ít có những “vụ” uống nước vối, ăn khoai lùi, trò chuyện cởi mở với nhau như thế. Thường thường, trẻ con chui vào chăn bông đi ngủ sớm, trùm kín đầu đâu đấy rồi mới móc túi lấy hạt dẻ hay ngô rang ra xực, trong khi một cô em gái đọc cho bà nội nghe truyện “Thuyết Đường” hay “Tây Du” lấy công một hai xu một quyển.
Có khi ăn chưa hết ngô rang trong túi đã ngủ rồi, và chỉ độ một tiếng đồng hồ đã mộng thấy mình đi qua cầu, sang Gia Lâm, Gia Quất bẻ trộm ngô và bị người ta đuổi đánh. Sợ toát mồ hôi, thức dậy thì có khi cả nhà đã tắt đèn đi ngủ rồi. Lúc ấy, nằm mà lắng tai nghe những hạt mưa nặng hơn lúc ban ngày rơi lộp bộp trên mái ngói, người ta, dù hãy còn nhỏ nhít, cũng thấy buồn tê tê, nhưng buồn nhất đêm đông ở Bắc Việt là tiếng rao “giò giầy” và tiếng một người ăn mày từ ở tít đàng xa vọng tới, ví cái thân mình với con cá: “con cá nó sống vì nước, con sống về cửa ông cửa bà”.
Hình ảnh một người đàn ông mặc áo lá rách, đội một cái thúng vá trên đầu và xách một cái đèn dầu ở tay, thỉnh thoảng lại đánh rơi trong đêm khuya một tiếng rao ngái ngủ “giò giầy” cũng như hình ảnh một người mù, tay cầm một cái gậy bò lê dưới trời mưa, trong gió lạnh (có khi có một con chó dẫn đường), tính đốt tay cho đến bây giờ đã có ngót sáu mươi năm nhưng vẫn cứ mờ mờ hiện hiện trong óc tôi mỗi khi thấy tháng một trở về.
Tháng một trở về ở đây không có gió bấc, không có mưa phùn, tháng một trở về ở đây tươi hồng rậm lá, tháng một trở về ở đây sướng như điên trong tiếng nhạc “sốt gun” có cô con gái Việt Nam bá vai thằng Mỹ đu đưa, thế mà không hiểu tại sao tôi cứ nhớ hoài, cứ thương mãi cái tiếng rao “giò giầy” và tiếng than “con sống về cửa ông cửa bà” của người ăn mày mù! …
Sàigòn ơi, Sàigòn có đêm hồng, Sàigòn có những cô ca sĩ đeo một triệu rưởi hột xoàn ở cổ và một triệu rưởi hột xoàn khác ở vú, có khi nào quay về xứ Bắc anh em để nhận thức rằng Sàigòn sướng không biết chừng nào vì gạo thì thừa, cá lại lắm mà mùa đông lại không cần áo rét vì

Ở đây được cái quanh năm nắng,
Chẳng mượn ai đan áo ngự hàn!

- Rỡn hoài. Bộ anh này muốn nói mỉa Sàigòn sao chớ?
- Đâu có. Này, tôi hỏi: thế từ xưa đến nay có bao giờ ở miền Nam lại có người chết đói chưa? Mà có bao giờ đã có người chết rét chưa? Ở Bắc, có những năm mất mùa, vô số người chết đói; còn rét mà chết, nói đâu xa làm gì, chỉ cách đây vài năm thôi, các báo chẳng đăng bằng tít bự như thế này, rằng “Ở Bắc Việt người ta chết cả đống vì trời ra tai rét quá, không thể nào chịu nổi”?
Thế nhưng mà thôi, nói mấy cũng là thừa, bởi vì từ xưa tới nay ai cũng biết là Bắc Việt nghèo khổ mà Nam Việt thì phè phỡn. Phè phỡn vì Nam Việt là con cưng được trời thương, nhưng “con ghét làm nên” có lẽ cũng là được trời thương cách khác. Nhưng dù là con thương hay con ghét thì cũng là anh em ruột thịt cho nên Nam, Bắc lúc nào cũng thương nhau, mỗi khi thấy cẳng đậu đun hạt đậu, thì hạt đậu khóc hu hu:

Cùng chung nhau một mẹ,
Đun nhau nỡ thế ru?

Tôi không ưa mấy ông “Bắc Kỳ cũ” lên mặt thạo, nói rằng người Nam “chịu được người Trung chớ không chịu được người Bắc” và mặc dầu người Nam không nói ra miệng nhưng trong tiềm thức vẫn nuôi một tinh thần kì thị.
Thú thực, tôi chỉ thấy ở Mỹ có kì thị đen trắng chứ ở Ấn bây giờ cũng chẳng còn kì thị giữa quý phái và cùng đinh thì sao ở Việt Nam lại có thể có kì thị Nam Bắc được? Nói lí sự nghe lãng nhách, cứ nhìn vào thực tế mà xem. Chỉ trong vòng có hơn chục năm nay, Bắc Việt và Nam Việt đã tỏ ra “chịu” nhau như chưa bao giờ thấy ghi trong lịch sử: chịu nhau từ việc lớn là bảo vệ tự do, xây dựng dân chủ cho đến việc nhỏ như vũ nhạc, y phục, trang trí, ẩm thực, thời trang… Cuộc di cư vĩ đại một ngàn chín trăm năm mươi tư tưởng đâu là một giai đoạn đau buồn trong lịch sử Việt Nam, thế mà không ngờ lại thành ra một cái cớ để siết thêm chặt tình thương yêu Nam Bắc.
Hồi còn người Pháp ở đây, tôi hả hê không biết chừng nào khi thấy có những ông tây chính cống nghiện mắm tôm, đến nỗi cho cả mắm tôm vào chè đường để ăn. Đến thời Mỹ, thấy họ đem thực phẩm từ Mỹ sang để xài với cả nước lạnh từ bên Mỹ sang để uống, tôi cử tưởng suốt đời ngườỉ Mỹ không thèm nhúng vào một miếng ăn nào của Việt Nam; ấy thế mà chỉ một hai năm sau, chả giò, chả lụa, lươn um, thịt bò khô trộn với đu đủ, bún thang… họ tìm ăn như quỷ. Thấy vậy, tôi cười, và thích thú vô cùng.
Nhưng thích thú, hả hê gì thì cũng không bằng thấy các ông, các thầy người Nam lịch sự như trời nghiện phở Bắc, sáng sáng không làm một tô thì đừ ra trông thấy, hay các bà các cô người Nam đẹp như tiên chịu bún riêu, bánh cuốn, bún ốc, rượu nếp, thang… hơn là bún bò, bì cuốn, hủ tíu thịt heo, cháo huyết…
Vẫn biết mỗi thức ăn có một phong vị riêng, không thể đem ra so sánh được, nhưng trông thấy người Nam “ăn Bắc”, tôi thấy có một cái gì duyên dáng lạ lùng, và tôi ưa nghĩ rằng ăn như thế là đem cái thương yêu đặt vào trong lòng, trong ruột.

*
* *

Cô Ba đã thấy có những người Bắc mới vào đây không biết ăn sầu riêng chưa? Ngộ lắm: họ lợm giọng, muốn nhả ra, nhưng sợ bất lịch sự đành phải nuốt mà chảy cả nước mắt nước mũi ra, y như thể một đứa trẻ ăn cơm muốn bỏ mứa nhưng không được, phải nhắm mắt nhắm mũi nuốt cho xong.
Ở Bắc, có một món mà lúc đầu nhiều người trong này cũng không chịu được, cũng như có một số người Bắc lúc đầu không chịu được sầu riêng nhưng sau quen giọng rồi thì nghiện như nghiện cần sa vậy: đó là cà cuống - một thời trân của tháng một, được lưu ý nhiều từ khi có cuộc di cư.
Bây giờ, nói đến cà cuống, tất còn có cô Bảy, cô Ba lợm giọng và chê là hôi quá, không chịu nổi, nhưng nói chung thì nhiều người ở đây đã chịu cái giọng của nó rồi. Tôi còn nhớ hồi năm một ngàn chín trăm hai mươi chín, ba mươi, ở trong này, về phía đồng bào người Nam có thể nói một ngàn người thì may ra có một dùng được nổi mà thôi, còn chín trăm chín mươi chín người “cẩm như Tây” không thể ngửi được mùi của nó, chớ đừng nói là thưởng thức.
Thực tình đến bây giờ tôi không biết tại sao lại có người ngửi mùi cà cuống mà lại bảo là hôi, chớ ở Bắc thì có thể nói không người nào lại không mê cà cuống, không nhà nào lại không có một ve cà cuống để sẵn trong nhà, ăn uống món nào đó cần phải có tí cà cuống mà không có để đưa ra thì người nội trợ chưa được liệt vào “số dách”.
- Tưởng là gì! Con cà cuống anh nói đó có phải tên thật là đà cuống không? Nếu thế thì ở đây thiếu gì. Người ta không buồn bắt. Vào cữ này, đêm nào anh cứ đi láng cháng trên con đường Tân Sơn Nhứt hay là ra cầu Bình Lợi xem có cả đống không?
- Chính “hắn” đó. Người ta quen gọi là cà cuống. Thực ra, tôi không biết sự tích nó thế nào, nhưng nhớ lại lúc vợ chồng sum họp với nhau, ngồi nhể bọng cà cuống lấy dầu, thì vợ vốn là người thuộc thơ và nhớ tích truyện, cho biết con cà cuống thực ra là con đà cuống, và cũng như chim ngói, cá mòi, cũng có một truyền kì về nó.
Tục truyền rằng Triệu Đà là người đầu tiên ở nước ta ăn cơm với con cà cuống. Thấy thơm một cách lạ kì, ông ta bèn gửi dâng vua Hán một mớ và gọi nó là “quế đồ”, nghĩa là con sâu cây quế. Vua Hán nếm thử thì nhận rằng nó giống mùi quế thực, khen ngon và phân phát cho quần thần mỗi người một con. Bất ngờ trong đám có một ông lắm chuyện tâu rằng: “Đó không phải là con sâu sống ở trong cây quế mà chỉ là một con sâu sống ở dưới nước “thuỷ đồ”. Vua mới phán rằng: “Thử nãi Đà chi cuống dã”, nghĩa: đó là lời nói láo của Đà. Từ đó, cà cuống thành ra đà cuống. Nó còn một tên nữa là “long sắt”, nghĩa là con rận rồng.
Con rận rồng! Nghe tên có quý không? Ta có tám món ăn quý nhất gọi là bát trân : nem công là một, chả phượng là hai, da tây ngu là ba, bàn tay gấu là bốn, gân nai là năm, môi đười ươi là sáu, thịt chân voi là bảy, yến sào là tám. Con rận rồng không phải là một thứ trân, mà chỉ nên coi là gia vị, nhưng nghe tên thì quý có phần hơn cả bát trân là khác.
Là vì con cà cuống quý không phải vì thịt nhưng vì cái dầu của nó. Cứ vào cữ tháng một ở Bắc Việt cà cuống trứng, cà cuống cay “dội” lên ở khắp nơi. Trên các đường phố Hà Nội thương thương, có những người đàn bà đội thúng ở trên đầu, tay đu đưa đi trong im lặng không rao một tiếng mà tài thế, nhà nào cũng biết để mà gọi vào mua.
Tôi còn nhớ có một thời kì tôi được sống những ngày trời tháng bụt: mùa rét, tám chín giờ mới dậy, chừng mười giờ mặc ba-đờ-suy, đi ghệt đờ-vin láng cháng ra một nhà hàng gần đó uống rượu hâm, rồi về nhà giết những phút vô liêu bằng cách lên gác xuống nhà, ngâm ngợi dăm ba câu lếu láo.
Chính nhờ thế, tôi mới biết là những người đàn bà bán cà cuống ấy sở dĩ không cần rao vì họ đã có khách quen cả rồi: có hàng thì cứ tự nhiên đem vào bán, mà đã vào thì các bà nội trợ cứ tự nhiên mua. Người bán và người mua cùng ngồi nhể bọng cà cuống cho vào một cái đĩa nhỏ, đến khi xong cả thì mới trút vào trong một cái ve nhỏ bằng ve dầu Vạn Ứng, đậy thực kín, lấy giấy bóng bao ngoài cái nút rồi lấy dây quấn chặt để cho không bay hơi đi mất.
Vì không có công chuyện gì phải làm ăn gấp rút, có nhiều lần tôi cũng “ké” vào ngồi xem và cũng bắt chước đi lấy tăm nhể bọng cà cuống chơi. Những con cà cuống này còn sống cả. Nếu cầm không cẩn thận, nó châm cái ngòi vào tay. Ngòi nó từa tựa như vòi con ve vậy. Mà “như” gì nữa? Theo tôi, cà cuống là một loại ve lớn, nhưng thay vì mình ve khác tròn thì mình nó dẹp, có bốn cánh, hai cánh ở trong ngắn, mỏng mà vàng còn hai cánh ở ngoài thì dài, cứng hơn một chút, màu cánh gián sẫm, có gân tim tím.
- Anh cẩn thận kẻo nó bò đi mất đấy. Mà nó lại bay nữa, phải coi chừng!
- Biết quá mà. Hồi chúng mình chưa lấy nhau, anh đi chơi một hai giờ đêm mới về. Anh còn nhớ cũng vào khoảng tháng này đây, đi con đường từ Lò Sũ về Bờ Hồ, qua rạp Philharmonique và đền Bà Kiệu lá rụng và cà cuống bay cứ rào rào làm lu cả bóng đèn điện ngoài đường, bắt không xuể… Nhưng này, sao nó chỉ dội lên mấy ngày, một tuần lễ là cùng, rồi mất hẳn không thấy nữa?
- Cái gì đẹp mà quý lại chẳng hiện lên rồi mất ngay? Con rươi, chim ngói, cá mòi, cốm… đều thế cả. Có phải Tây cũng như Tàu đều tin như vậy và vẫn nói rằng “ngay hôm nay phải hái liền những bông hồng của cuộc đời” phải không anh?
- Nhưng mà này, sao mình nhể “liền” cái bọng của con này lại không có gì là nghĩa làm sao?
- Ông ơi, ông chỉ được cái tài nói khoác. Có phải con cà cuống nào cũng có bọng để lấy dầu đâu! Đây này là con đực, chỉ có con đực là có dầu thôi.Vì thế, cà cuống cay bao giờ cũng là cà cuống đực. Con cà cuống đực có một cái bao nhỏ dính với ruột, trong chứa một chất nước như mùi nước đái quỷ. Ở hai bên, phía trong bụng, dưới cặp chân thứ ba, có hai cái túi nhỏ bằng hột gạo trong đựng một chất nước thơm. Cái nước thơm ấy, ta đương nhể ra đây. Nhể phải nhanh tay mới được, chậm thì bay mất mùi thơm đi. Ta gọi cái nước thơm ấy là dầu cà cuống. Dầu cà cuống nhẹ hơn nước, mùi thơm hơi cay, cho vào lọ mà bịt nút không kín thì nó bay hơi đi mất.
Nhớ những lời của vợ kể ngày xưa, người chồng nói khoác hôm nay lại cứ đúng nguyên văn mà nói lại với những cô bạn mĩ miều phương Nam đương ngồi ăn thang chan đẫm mắm tôm cà cuống. Cô nào nghe cũng cứ treo mắt lên môi anh chàng. Và anh không quên nói tiếp mấy câu tráng miệng:
- Thế nhưng đừng tưởng cà cuống chỉ quý riêng về cái dầu đó mà thôi. Ta biết cà cuống có hai thứ: cà cuống cay và cà cuống thịt. Cà cuống cay cho chúng ta chất dầu đặc biệt vừa nói, nhưng cà cuống thịt lại có một vẻ lâm li khác hẳn. Bỏ cánh đi rồi, anh nhần nhần sáu cái chân nó, lấy cái đầu, xé ra nhấm nhót cái ức trước rồi cái đuôi sau, anh sẽ thấy nó có một vị ngon khác hẳn các món ăn ngon nào khác: nó nhận nhận, bùi bùi, beo béo mà lại thanh thanh, một người tục có thể ăn cả trăm con không biết ngán.
Mà ngán làm sao được? Tháng một là tháng cà cuống thịt hầu hết đều có trứng, tách đôi cái bụng nó mà nhần lấy những chùm trứng xanh xanh, vàng vàng như hoa cà hoa cải, tôi nhất định tin là còn khuya cái món ca-vi-a (1) của Âu Mỹ mới mong sánh kịp.
- Thế cà cuống cay lấy dầu xong thì “rục” cả đi ư?
- Nói bậy. Ăn cũng ngon như cà cuống thịt vậy, nhưng nó kém ngon một chút vì không có trứng mà thịt ở ức không mấy béo.
Một cô mĩ miều bỗng đập tay vào vai cô ngồi cạnh:
- Thôi chết rồi, nói vậy thì ở đây mình cũng có cà cuống mà mình không bắt để ăn…
- Thì đã nói là ở đây thiếu gì, nhưng cái hay là có người không buồn bắt, trong khi có người khác lại biết bắt lấy để rút cái chất nước thơm và cay ở trong bụng nó làm đồ gia vị độc đáo nhất, mê li nhất. Đừng ai bảo ăn uống như thế là tầm bậy tầm bạ. Không. Ăn uống như thế là đã đi đến chỗ tinh vi triệt để, không dễ gì các nước vỗ ngực là văn minh, mà cũng không dễ gì các nước có một nền văn hoá hai ba trăm năm đã biết ăn như vậy.
Mù-tạt là cái gì? Nước cà tô-mát là cái gì? Mà ma-di là cái gì? Đó là tất cả những cái gì rất ngon, rất quý của Tây phương, ai mà dám chê; nhưng có nhiều lúc tôi đã nghĩ thầm như thế này và tôi cười muốn chết: ngày tết gói bánh chưng trộn nhân với mù-tạt; ăn thang, cuốn, chả cá, tiết canh lòng lợn chấm mắm tôm mà lại cho tô-mát-dút (2); hoặc ăn bánh cuốn, cháo ám mà lại cho vào nước mắm một ít ma-di hay lạp-chíu-chương thì trời đất quỷ thần ơi, phong vị các món ăn gia dụng ấy sẽ ra sao?
Nước Việt Nam khổ sở của chúng ta có biết bao nhiêu món ăn thích khẩu, nhưng biết bao nhiêu món ăn thích khẩu sẽ “đi đoong” nếu không có gia vị là cà cuống. Âu cũng là một điều đáng tiếc là phải đợi mãi đến gần đây ta mới thấy người mình ở trong này lấy dầu cà cuống để điểm vào những bữa tiệc hay những bữa quà cho “thơm” hơn! Vậy mà dần dần đồng bào ở đây và cả các ông ngoại quốc cũng “chịu giọng” cái “chất nước trong, cay hắc mà hôi hôi đó” - chịu quá, chịu đến hoá ra ghiền, vì tôi đã thấy có người ăn bất cứ món gì cũng phải cho mấy giọt cà cuống vào nưởc chấm mới làm được vừa ý ông thần khẩu.
Ấy thế mà cà cuống ở đây, thực ra, mới chỉ là hạng nhì, vì cà cuống đây không cay sắt là một lẽ, mà lẽ khác là vì dầu cà cuống phần nhiều pha chớ không được nguyên chất, lại cũng có thứ dầu cà cuống chế bằng chất hoá học chớ không phải là dầu chính cống, lấy trong bọng con cà cuống ra.
Tôi tiếc ở đây người ta không xài cà cuống thịt, phảí chi có những người đến mùa đi bắt đem về luộc lên để cho các bợm nhậu đưa cay, dám chắc xí-quách, lỗ tai heo, khô nai, khô cá thiều, thịt bò lúc lắc đều thua xa một nước.

*
* *

Nhưng nói thế mà thôi, chớ nóng chảy mỡ ra như cái tháng một ở trong này, ăn vàng vào miệng cũng như là ăn rơm. Chỉ được cái trái cây gỡ lại. Không nuốt được cơm, chỉ lấy trái cây mà rẫy, rồi ăn xong thì mồ hôi mồ kê nhễ nhại, anh nằm quạt máy lim dim con mắt mơ về những chuyện xa xưa, tôi đố anh không có lúc thấy tiếc tiếc, nhớ nhớ, thương thương cái bầu trời đục màu chì lỏng, cái mưa lầy lội chỉ vừa làm ướt gấu quần và cái rét êm êm, ngòn ngọt thỉnh thoảng lại có một ngọn gió hơi buôn buốt thổi vù vù từ xa lại làm cho những cành cây thưa lá đập vào nhau và reo lên khe khẽ như tiếng của những người yêu bé nhỏ gọi những người yêu.
Mưa rét như thế, ai mà chẳng cảm thấy ở trong nhà đọc sách thỉnh thoảng lại nhắp một miếng cà phê do chính mình pha lấy và hít một khói xì gà thì nhất: những người có chất nghệ sĩ lắm khi khó chịu đến cái mức vợ con không thể nào chịu nổi. Có ai nằm nhớ lại Hà Nội ngày nào, vào những lúc trời se sắt, mưa dầm dề, gió lê thê như thế, thỉnh thoảng ở giữa đường lại có một anh chàng mặc áo tơi, đội mũ mốt săng, đi ghệt, ngậm cái ống điếu đi lang thang một mình như đang nghĩ thơ không?
Ấy đó, biết là đóng cửa lại ở trong nhà ấm cúng thật tình, nhưng có những người nhìn lên trời thấy ở bên ngoài sầu sầu một cách nên thơ, tự nhiên cảm thấy không chịu được, phải vội vàng khoác áo đội mũ ra đi để tận hưởng cái rét, để dầm mình vào trong mưa, để nghe cái nhịp thở âm thầm của cỏ cây lúc đó bắt đầu hé những lá non bé tí tẹo, xanh mươn mướt.
Không phải là thi sĩ, nhưng vào những buổi chiều tháng một ở Hà Nội, người nào cũng muốn làm thơ: trời lạnh có gió mưa, nghe tiếng rao sì-cốc-bểu là một loại bánh cuốn hấp, người ta cũng thấy có một cái gì gợi cảm; cái xe tay trùm áo tơi cánh gà cũng có thể là một đề tài để cho người đa tình suy nghĩ hay một cái quán bên đường he hé mở để cho người đi qua nghe thấy một cái lò than hồng tráng bánh cuốn có mấy người ngồi ăn trong làn khói mờ mờ như sương cũng có thể làm cho ta tưởng tượng bao nhiêu cuộc hợp hoan chờ đợi…
Rét lắm, anh ơi, thôi đi về, anh nhé. Những bờ vai sát lại với những bờ vai; những con mắt nhõng nhẽo tìm những con mắt ngọt ngào; mớ tóc ai đen rưng rức như đêm tăm sao khéo buông lơi xuống môi má người thương y như thể tơ hồng quấn quýt lấy cành mộc-liên xanh nõn…
Kéo cái màn cửa sổ mà nhìn qua lớp kính mờ mờ hơi nước xuống con đường nhựa láng bóng nước mưa, anh thấy vũ trụ im ru như trong buổi hồng hoang mà nhịp thở ân tình của người yêu là tiếng hát ru, còn bộ ngực ngát thơm là cái gối mộng đưa anh xuống con thuyền bát nhã chở về miền cực lạc.
Bây giờ, ngồi ở trong một quán nước vắng teo mà nhìn lên gác nhà ai le lói một làn ánh sáng mờ mờ ấm ấm, người chồng phiêu bạt đột nhiên cảm thấm thía hơn cả bao giờ nỗi cô chích của mình và bao nhiêu kỉ niệm với người vợ bùi ân ngọt ái khi xưa lại trở về như những cánh chim non trong mộng.
Ối, ở cái đất giàu có sung sướng này, hương phấn thừa thãi, giơ ngón tay út lên thì lúc nào chẳng có người sẵn sàng kết bạn một đêm với anh ngay, nhưng người chồng “đánh rẻ cái hồng nhan” đứng dậy, bỏ quán nước đứng lên; đi thủng thỉnh dưới mưa phùn gió bấc. Ngao ngán cho thân mình, y có lúc không còn mong gì nữa, không còn thèm gì nữa. Mong gì bây giờ? Mà còn thèm gì bây giờ? Những tiếng cười tiếng nói đa tình, những bộ đứng, cách đi duyên dáng của các cô bạn mĩ miều đã tắt như lửa ở trong lò sưởi tắt lúc trời gần sáng. Bao nhiêu ấm cúng, bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu an ủi đã chết rồi, bây giờ chỉ còn lại một cái gì trống rỗng mông mênh, một cái gì nhạt nhẽo không làm rung động được khứu giác, một cái gì ghê rợn thoang thoảng mùi bệnh tật và chết chóc.
Chiếc chìa khoá vàng rớt từ ở trên đỉnh tháp xuống bây giờ biết tìm đâu? Đến gần sáng, người chồng mới về được tới nhà, mở cửa rộng ra, và tự nhiên thấy tạt lại một mùi gì nhạt nhẽo: có lẽ đó là mùi chăn hôi chiếu mốc. Mệt mỏi, anh không buồn đóng cửa lại nữa, gục đầu xuống cởi giày nhưng để nguyên quần áo lăn ra giường và lấy nửa cái chăn đắp vào ngực cho đỡ lạnh.
Ngoài kia, mưa rơi buồn thê thiết; gió thổi qua khe cửa làm cho lá màn màu bạc úa cũng rung lên vì lạnh. Kỉ niệm xa xưa ơi, cứ đến trêu chọc người gối lẻ nằm mất ngủ đêm mùa đông làm gì ?!

Em ra bến nước trông về Bắc,
Chỉ thấy mây trôi, chẳng thấy làng!

Y giơ tay bưng lấy mặt, nhưng vẫn không tài nào chợp được mắt.

*
* *

Một lát thì ở xa tiếng gà đã gáy te te. Trời lọc qua cửa kính rọi vào một làn ánh sáng đục lờ như thể cà phê sữa. Chẳng biết bây giờ ở xứ bạn nằm yên giấc, trời đã sáng chưa, mà sao ở trong căn phòng úa héo này, vẫn còn tối mù tối mịt.
Người chồng lăn bên này, lăn bên nọ thì đã thấy ở bên cạnh có tiếng máy truyền thanh nhỏ nhẻ vọng sang. Cái đất này nghiện máy truyền thanh, cải lương, Quỳ ạ.
Trước đây, vợ anh thích nhất hai tuồng “Sơn Hậu” và “Chiêu Quân cống Hồ”. Anh cũng thích là vì vợ thích. Nhưng đêm nay, ruột cứ nẫu ra, còn bụng dạ nào mà nghe nữa? Anh kéo chăn trùm kín lấy đầu, nhưng giọng Út Bạch Lan trong “Bụi mờ ải nhạn” vẫn cứ như khoan vào lỗ tai. Trong lúc chập chờn nửa mê nửa tỉnh, anh bỗng thấy từ dưới đất dưng lên đồi núi trùng trùng điệp điệp, trắng xoá dưới những lớp tuyết dày dãi ra bát ngát không biết đâu là đất, đâu là trời.
Không có một bông hoa, một bóng chim. Tuyết, chỉ toàn là tuyết trắng. Thỉnh thoảng, nổi lên một tiếng tì bà oán hận. Rồi ở xa xa, xa tít đàng xa, có hai cái hình bóng bé nhỏ hiện lên trên hai con ngựa gầy cúi đầu đạp tuyết mà đi về phía chân trời tẻ ngắt. À, ra là Vương Chiêu Quân đi cống Hồ, có Lưu Văn Long hộ vệ, và cứ đến mỗi chặng đường, Chiêu Quân lại khóc bằng mười đầu ngón tay trên cây đàn tì rồi tức cảnh làm thơ để Lưu Văn Long hoạ lại, nói lên nỗi lòng thương Hán oán Phiên.
Người chồng chảy nước, nói một mình như thể người mơ ngủ:
- Tội nghiệp Chiêu Quân vì sắc đẹp mà phải đem mình sang cống vua Phiên, nhưng ai oán nào cho bằng Lưu Văn Long bị vạ lây, phải bỏ vợ mới cưới đi hộ tống “lịnh bà” sang đất rợ để tới khi được về thì tóc xanh đã bạc quách từ bao giờ rồi!

Thứ Sáu, 24 tháng 12, 2010

Lời Chúc Của Minh Huyền

Mình bận quá, tuy nhiên nhớ đến ngày Noel, muốn có một món quà nhỏ gửi tặng ngôi nhà chung của chúng ta. Sơn post len blog của lớp giúp mình nhé.

HÀ NỘI ĐÊM NOEL
                          Phạm Bá Chiểu

Dòng người đổ ào, ào, ào bão cuốn
Xé mùa đông thành muôn mảnh mùa hè
Về tâm bão, đèn sao nhà thờ Lớn
Rùng, rùng, rùng những con phố biết đi…

Tiếng chuông ngân đẩy lùi cơn gió bấc
Ông già noel đỏ nặng túi quà
Thông noel trĩu nặng cành lời chúc
Chúa hài đồng hang đá lạnh đầy hoa.

Sao nhà thờ, sao trời, sao ánh mắt…
Đêm noel, đêm của những vì sao
Hướng giáo đường hát thánh ca nguyện ước
Thế giới hòa bình
chiến tranh qua mau  ...


       







            
      Chúc các bn 12A1 đón Giáng sinh an lành bên Gia đình!

Merry Christmas to all! (lời chúc của Hồng Vân)

     _____________☆
__________________☆☆♥
_________________☆☆☆♥`
________________☆Hello,´♥`
_______________☆I Have....´♥`
______________☆Come Here´♥`
_____________☆To Wish You ´♥`
____________☆Merry Christmas´♥`
___________☆And Also, A Happy´♥`
__________☆New Year To You For´♥`
_________☆2011...I Hope The New ´♥`
________☆Year Brings You Loads Of ´♥`
_______☆Happiness And Good Health. ´♥`
_____☆I Hope You Have A Nice Day On ´♥`
____☆Christmas Day, Filled With Lots Of ´♥`
___☆Family Time.....And Of Course Eating ´♥`
__☆Lots Of Nice Foods, And Candies. I Hope´♥`
_☆That Santa Is Good To You As Well And He´♥`
.☆Brings You lots Of Presents On Christmas Day´♥`


Nếu một sáng mai thực dậy, bạn bỗng thấy mình bị nhét vào một cái bao bố thật to và bị lôi đi thì đừng hoảng sợ nhé, bởi vì tôi đã xin ông già Noel, món quà tôi muốn duy nhất chính là bạn, Merry Christmas!
   
Ấm áp không phải khi bạn đóng cửa và chui vào chăn, mà khi bạn mở toang cửa sổ, nhìn ra bên ngoài. Chắc chắn sẽ có điều thú vị sưởi ấm lòng bạn.
Ấm áp không phải khi ngồi bên đống lửa, mà là bên cạnh người bạn thương yêu.
Ấm áp không phải khi bạn mặc một lúc hai, ba áo, mà là khi bạn đứng trước gió lạnh, từ phía sau đến có ai đó khoác lên bạn một tấm áo.
Ấm áp không phải khi bạn đội chiếc mũ len, mà là khi đầu bạn dựa vào một bờ vai tin cậy.
Ấm áp không phải khi bạn dùng hai ban tay tay xuýt xoa, mà là khi tay ai kia khẽ nắm lấy bàn tay bạn.
Ấm áp không phải khi bạn nói “ấm quá”, mà là khi có người thì thầm với bạn: “Có lạnh không?”.
Ấm áp chưa hẳn là khi bạn ôm ai đó thật chặt, mà là khi ai đó khoác vai bạn thật khẽ .
Và ấm áp là khi mùa thu qua, cái lạnh ùa về… Có một ai đó khẽ thì thầm vào tai bạn: “Chúc ấy một mùa đông ấm áp!”.
Giáng sinh an lành và hạnh phúc với tất cả mọi người.
Và bây giờ, bạn cười trông đáng yêu hơn đấy, đừng chọn vẻ bề ngoài, vì nó là giả dối ; đừng chọn vật chất vì nó có thể mất đi; hãy chọn nụ cười. Mùa đông ấm áp hơn khi có một nụ cười. Merry Xmas ^_^
 
 
Mùa đông lạnh nhưng rất lãng mạn, nắng của mùa đông yếu nhưng đủ làm ấm trái tim một ai đó. Noel là dịp bạn và những người xung quanh tận hưởng những giây phút ngọt ngào của tình yêu thương. Đừng đóng chặt trái tim mình, hãy mở cửa trái tim để biết rằng giữa mùa đông mình vẫn thấy ấm áp.  Chúc Giáng sinh vui vẻ và một năm mới thật bình an!

Best Regards,
Nguyen Thi Hong Van

Thứ Tư, 22 tháng 12, 2010

Câu chuyện bát mì


Trong cuộc sống ngày nay, xin đừng quên rằng còn tồn tại lòng nhân ái. Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.

o O o

Đêm giao thừa, ăn mì sợi đón năm mới là phong tục tập quán của người Nhật, cho đến ngày đó công việc làm ăn của quán mì rất phát đạt. Ngày thường, đến chạng vạng tối trên đường phố hãy còn tấp nập ồn ào nhưng vào ngày này mọi người đều lo về nhà sớm hơn một chút để kịp đón năm mới. Vì vậy đường phố trong phút chốc đã trở nên vắng vẻ.

Ông chủ Bắc Hải Đình là một người thật thà chất phát, còn bà chủ là một người nhiệt tình, tiếp đãi khách như người thân. Đêm giao thừa, khi bà chủ định đóng cửa thì cánh cửa bị mở ra nhè nhẹ, một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai bé trai bước vào. Đứa nhỏ khoảng sáu tuổi, đứa lớn khoảng 10 tuổi. Hai đứa mặc đồ thể thao giống nhau, còn người phụ nữ mặc cái áo khoác ngoài lỗi thời.
- Xin mời ngồi!
Nghe bà chủ mời, người phụ nữ rụt rè nói:
- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?
Phía sau người phụ nữ, hai đứa bé đang nhìn chăm chú.
- Đương nhiên... đương nhiên là được, mời ngồi vào đây.
Bà chủ dắt họ vào bàn số hai, sau đó quay vào bếp gọi to:
- Cho một bát mì.

Ba mẹ con ngồi ăn chung một bát mì trông rất ngon lành, họ vừa ăn vừa trò chuyện khe khẽ với nhau. "Ngon quá" - thằng anh nói.
- Mẹ, mẹ ăn thử đi - thằng em vừa nói vừa gắp mì đưa vào miệng mẹ.
Sau khi ăn xong, người phụ nữ trả một trăm năm mươi đồng. Ba mẹ con cùng khen: "Thật là ngon! Cám ơn!" rồi cúi chào và bước ra khỏi quán.
- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ - ông bà chủ cùng nói.



Công việc hàng ngày bận rộn, thế mà đã trôi qua một năm. Lại đến ngày 31/12, ngày chuẩn bị đón năm mới. Công việc của Bắc Hải Đình vẫn phát đạt. So với năm ngoái, năm nay có vẻ bận rộn hơn. Hơn mười giờ, bà chủ toan đóng cửa thì cánh cửa lại bị mở ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm là một người phụ nữ dẫn theo hai đứa trẻ. Bà chủ nhìn thấy cái áo khoác lỗi thời liền nhớ lại vị khách hàng cuối cùng năm ngoái.
- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?
- Đương nhiên... đương nhiên, mời ngồi!
Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai như năm ngoái, vừa nói vọng vào bếp:
- Cho một bát mì.
Ông chủ nghe xong liền nhanh tay cho thêm củi vào bếp trả lời:
- Vâng, một bát mì!
Bà chủ vào trong nói nhỏ với chồng:
- Này ông, mình nấu cho họ ba bát mì được không?
- Không được đâu, nếu mình làm thế chắc họ sẽ không vừa ý.

Ông chủ trả lời thế nhưng lại bỏ nhiều mì vào nồi nước lèo, ông ta cười cười nhìn vợ và thầm nghĩ: "Trông bà bề ngoài khô khan nhưng lòng dạ cũng không đến nỗi nào!"

Ông làm một tô mì to thơm phức đưa cho bà vợ bưng ra. Ba mẹ con ngồi quanh bát mì vừa ăn vừa thảo luận. Những lời nói của họ đều lọt vào tai hai vợ chồng ông chủ quán.
- Thơm quá!
- Năm nay vẫn được đến Bắc Hải Đình ăn mì thật là may mắn quá!
- Sang năm nếu được đến đây nữa thì tốt biết mấy!
Ăn xong, trả một trăm năm mươi đồng, ba mẹ con ra khỏi tiệm Bắc Hải Đình.
- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ!

Nhìn theo bóng dáng ba mẹ con, hai vợ chồng chủ quán thảo luận với nhau một lúc lâu.

Đến ngày 31/12 lần thứ ba, công việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn rất tốt, vợ chồng ông chủ quán bận rộn đến nỗi không có thời gian nói chuyện. Đến 9g30 tối, cả hai người đều cảm thấy trong lòng có một cảm giác gì đó khó tả. Đến 10 giờ, nhân viên trong tiệm đều đã nhận bao lì xì và ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường ghi giá tiền của năm nay là “200đ/bát mì” và thay vào đó giá của năm ngoái “150đ/bát mì”. Trên bàn số hai, ba mươi phút trước bà chủ đã đặt một tờ giấy "Đã đặt chỗ". Đúng 10g30, ba mẹ con xuất hiện, hình như họ cố chờ khách ra về hết rồi mới đến. Đứa con trai lớn mặc bộ quần áo đồng phục cấp hai, đứa em mặc bộ quần áo của anh, nó hơi rộng một chút, cả hai đứa đều đã lớn rất nhiều.
- Mời vào! Mời vào! - bà chủ nhiệt tình chào đón.
Nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của bà chủ, người mẹ chậm rãi nói:
- Làm ơn nấu cho chúng tôi... hai bát mì được không?
- Được chứ, mời ngồi bên này!
Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai, nhanh tay cất tờ giấy "Đã đặt chỗ" đi, sau đó quay vào trong la to: "Hai bát mì".
- Vâng, hai bát mì. Có ngay.
Ông chủ vừa nói vừa bỏ ba phần mì vào nồi.

Ba mẹ con vừa ăn vừa trò chuyện, dáng vẻ rất phấn khởi. Đứng sau bếp, vợ chồng ông chủ cũng cảm nhận được sự vui mừng của ba mẹ con, trong lòng họ cũng cảm thấy vui lây.
- Tiểu Thuần và anh lớn này, hôm nay mẹ muốn cảm ơn các con!
- Cảm ơn chúng con? Tại sao ạ?
- Chuyện là thế này: vụ tai nạn xe hơi của bố các con đã làm cho tám người bị thương, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần, phần còn lại chúng ta phải chịu, vì vậy mấy năm nay mỗi tháng chúng ta đều phải nộp năm mươi ngàn đồng.
- Chuyện đó thì chúng con biết rồi - đứa con lớn trả lời.
Bà chủ đứng bên trong không dám động đậy để lắng nghe.
- Lẽ ra phải đến tháng ba năm sau chúng ta mới nộp hết nhưng năm nay mẹ đã nộp xong cả rồi!
- Hả, mẹ nói thật đấy chứ?
- Ừ, mẹ nói thật. Bởi vì anh lớn nhận trách nhiệm đi đưa báo, còn Tiểu Thuần giúp mẹ đi chợ nấu cơm làm mẹ có thể yên tâm làm việc, công ty đã phát cho mẹ một tháng lương đặc biệt, vì vậy số tiền chúng ta còn thiếu mẹ đã nộp hết rồi.
- Mẹ ơi! Anh ơi! Thật là tốt quá, nhưng sau này mẹ cứ để con tiếp tục nấu cơm nhé.
- Con cũng tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần chúng ta phải cố gắng lên!
- Mẹ cám ơn hai anh em con nhiều!
- Tiểu Thuần và con có một bí mật chưa nói cho mẹ biết. Đó là vào một ngày chủ nhật của tháng mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến dự một tiết học. Thầy giáo của Tiểu Thuần còn gửi một bức thư đặc biệt cho biết bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đảo đi dự thi văn toàn quốc. Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết nên hôm đó con đã thay mẹ đến dự.
- Có thật thế không? Sau đó ra sao?
- Thầy giáo ra đề bài: “Chí hướng và nguyện vọng của em là gì?” Tiểu Thuần đã lấy đề tài bát mì để viết và được đọc trước tập thể nữa chứ. Bài văn được viết như sau: "Ba bị tai nạn xe mất đi để lại nhiều gánh nặng. Để gánh vác trách nhiệm này, mẹ phải thức khuya dậy sớm để làm việc". Đến cả việc hàng ngày con phải đi đưa báo, em cũng viết vào bài nữa. Lại còn: "Vào tối 31/12, ba mẹ con cùng ăn một bát mì rất ngon. Ba người chỉ gọi một tô mì, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn cám ơn và còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa. Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có dũng khí để sống, khiến cho gánh nặng của ba để lại nhẹ nhàng hơn". Vì vậy Tiểu Thuần viết rằng nguyện vọng của nó là sau này mở một tiệm mì, trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất ở Nhật Bản, cũng sẽ nói với khách hàng của mình những câu như: "Cố gắng lên! Chúc hạnh phúc! Cám ơn!"

Đứng sau bếp, hai vợ chồng chủ quán lặng người lắng nghe ba mẹ con nói chuyện mà nước mắt lăn dài.
- Bài văn đọc xong, thầy giáo nói: anh của Tiểu Thuần hôm nay thay mẹ đến dự, mời em lên phát biểu vài lời.
- Thật thế à? Thế lúc đó con nói sao?
- Bởi vì quá bất ngờ nên lúc đầu con không biết phải nói gì cả, con nói: "Cám ơn sự quan tâm và thương yêu của thầy cô đối với Tiểu Thuần. Hàng ngày em con phải đi chợ nấu cơm nên mỗi khi tham gian hoạt động đoàn thể gì đó nó đều phải vội vả về nhà, điều này gây không ít phiền toái cho mọi người. Vừa rồi khi em con đọc bài văn thì trong lòng con cảm thấy sự xấu hổ nhưng đó là sự xấu hổ chân chính. Mấy năm nay mẹ chỉ gọi một bát mì, đó là cả một sự dũng cảm. Anh em chúng con không bao giờ quên được... Anh em con tự hứa sẽ cố gắng hơn nữa, quan tâm chăm sóc mẹ nhiều hơn. Cuối cùng con nhờ các thầy cô quan tâm giúp đỡ cho em con."

Ba mẹ con nắm tay nhau, vỗ vai động viên nhau, vui vẻ cùng nhau ăn hết tô mì đón năm mới rồi trả 300 đồng, nói câu cám ơn vợ chồng chủ quán, cúi chào và ra về. Nhìn theo ba mẹ con, vợ chồng ông chủ quán nói với theo:
- Cám ơn! Chúc mừng năm mới!

Lại một năm nữa trôi qua.

Bắc Hải Đình vào lúc 9g tối, bàn số hai được đặt một tấm giấy "Đã đặt chỗ" nhưng ba mẹ con vẫn không thấy xuất hiện.

Năm thứ hai rồi thứ ba, bàn số hai vẫn không có người ngồi. Ba mẹ con vẫn không thấy trở lại. Việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn như mọi năm, toàn bộ đồ đạc trong tiệm được thay đổi, bàn ghế được thay mới nhưng bàn số hai thì được giữ lại y như cũ.

"Việc này có ý nghĩa như thế nào?" Nhiều người khách cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh này nên đã hỏi. Ông bà chủ liền kể lại câu chuyện bát mì cho mọi người nghe. Cái bàn cũ kia được đặt ngay chính giữa, đó cũng là một sự hy vọng một ngày nào đó ba vị khách kia sẽ quay trở lại, cái bàn này sẽ dùng để tiếp đón họ. Bàn số hai "cũ" trở thành "cái bàn hạnh phúc", mọi người đều muốn thử ngồi vào cái bàn này.

Rồi rất nhiều lần 31/12 đã đi qua.

Lại một ngày 31/12 đến. Các chủ tiệm lân cận Bắc Hải Đình sau khi đóng cửa đều dắt người nhà đến Bắc Hải Đình ăn mì. Họ vừa ăn vừa chờ tiếng chuông giao thừa vang lên. Sau đó, mọi người đi bái thần, đây là thói quen năm, sáu năm nay. Hơn 9g30 tối, trước tiên vợ chồng ông chủ tiệm cá đem đến một chậu cá còn sống. Tiếp đó, những người khác đem đến nào là rượu, thức ăn, chẳng mấy chốc đã có khoảng ba, bốn chục người. Mọi người rất vui vẻ. Ai cũng biết lai lịch của bàn số hai. Không ai nói ra nhưng thâm tâm họ đang mong chờ giây phút đón mừng năm mới. Người thì ăn mì, người thì uống rượu, người bận rộn chuẩn bị thức ăn… Mọi người vừa ăn, vừa trò chuyện, từ chuyện trên trời dưới đất đến chuyện nhà bên có thêm một chú nhóc nữa. Chuyện gì cũng tạo thành một chuỗi câu chuyện vui vẻ. Ở đây ai cũng coi nhau như người nhà.

Đến 10g30, cửa tiệm bỗng nhiên mở ra nhè nhẹ, mọi người trong tiệm liền im bặt và nhìn ra cửa. Hai thanh niên mặc veston, tay cầm áo khoác bước vào, mọi người trong quán thở phào và không khí ồn ào náo nhiệt trở lại. Bà chủ định ra nói lời xin lỗi khách vì quán đã hết chỗ thì đúng lúc đó một người phụ nữ ăn mặc hợp thời trang bước vào, đứng giữa hai thanh niên.

Mọi người trong tiệm dường như nín thở khi nghe người phụ nữ ấy nói chầm chậm:
- Làm ơn... làm ơn cho chúng tôi ba bát mì được không?
Gương mặt bà chủ chợt biến sắc. Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh bà mẹ trẻ cùng hai đứa con trai chợt hiện về và bây giờ họ đang đứng trước mặt bà đây. Đứng sau bếp, ông chủ như mụ người đi, giơ tay chỉ vào ba người khách, lắp lắp nói:
- Các vị... các vị là...

Một trong hai thanh niên tiếp lời:
- Vâng! Vào ngày cuối năm của mười bốn năm trước đây, ba mẹ con cháu đã gọi một bát mì, nhận được sự khích lệ của bát mì đó, ba mẹ con cháu như có thêm nghị lực để sống. Sau đó, ba mẹ con cháu đã chuyển đến sống ở nhà ông bà ngoại ở Tư Hạ. Năm nay cháu thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập tại khoa nhi của bệnh viện Kinh Đô. Tháng tư năm sau cháu sẽ đến phục vụ tại bệnh viện tổng hợp của Trát Hoảng. Hôm nay, chúng cháu trước là đến chào hỏi bệnh viện, thuận đường ghé thăm mộ của ba chúng cháu. Còn em cháu mơ ước trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất Nhật Bản không thành, hiện đang là nhân viên của Ngân hàng Kinh Đô. Cuối cùng, ý định nung nấy từ bao lâu nay của chúng cháu là hôm nay, ba mẹ con cháu muốn đến chào hỏi hai bác và ăn mì ở Bắc Hải Đình này.

Ông bà chủ quán vừa nghe vừa gật đầu mà nước mắt ướt đẫm mặt. Ông chủ tiệm rau ngồi gần cửa ra vào đang ăn đầy miệng mì, vội vả nhả ra, đứng dậy nói:
- Này, ông bà chủ, sao lại thế này? Không phải là ông bà đã chuẩn bị cả mười năm nay để có ngày gặp mặt này đó sao? Mau tiếp khách đi chứ. Mau lên!

Bà chủ như bừng tỉnh giấc, đập vào vai ông hàng rau, cười nói:
- Ồ phải... Xin mời! Xin mời! Nào bàn số hai cho ba bát mì.
Ông chủ vội vàng lau nước mắt trả lời:
- Có ngay. Ba bát mì.

o O o

Thật ra cái mà ông bà chủ tiệm bỏ ra không có gì nhiều lắm, chỉ là vài vắt mì, vài câu nói chân thành mang tính khích lệ, động viên chúc mừng. Với xã hội năng động ngày nay, con người dường như có một chút gì đó lạnh lùng, nhẫn tâm. Nhưng từ câu chuyện này, tôi đi đến kết luận rằng: chúng ta không nên chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung quanh, chỉ cần bạn có một chút quan tâm dành cho người khác thì bạn có thể đem đến niềm hạnh phúc cho họ rồi. Chúng ta không nên nhỏ nhoi ích kỷ bởi tôi tin trong mỗi chúng ta đều ẩn chứa một tấm lòng nhân ái. Hãy mở kho tàng ấy ra và thắp sáng nó lên dù chỉ là một chút ánh sáng yếu ớt, nhưng trong đêm đông giá rét thì nó có thể mang lại sự ấm áp cho mọi người.

Câu chuyện này xuất hiện làm xúc động không ít độc giả Nhật Bản. Có người nhận xét rằng: "Đọc xong câu chuyện này không ai không rơi nước mắt". Đây chỉ là lời nhận xét mang tính phóng đại một chút nhưng nó không phải là không thực tế. Quả thật, nhiều người đọc xong câu chuyện đã phải rơi lệ, chính sự quan tâm chân thành và lòng nhân hậu trong câu chuyện đã làm cho họ phải xúc động.

(ST)

Thứ Ba, 21 tháng 12, 2010

BẠN THÂN


Sự kinh hoàng tràn ngập trong lòng một người lính thời Đệ Nhất Thế Chiến khi anh nhìn thấy người bạn tri kỷ của mình ngã xuống chiến trận.

Bị mắc kẹt trong một chiến hào và đạn pháo bay liên tục trên đầu nhưng người lính đó đã xin chỉ huy cho phép anh đi ra ngoài "vùng bình địa" giữa những chiến hào để đem người đồng đội bị trúng đạn trở vô.

Vị chỉ huy nói:

- Anh có thể đi nhưng tôi nghĩ công việc đó sẽ không đáng gì đâu. Có lẽ bạn anh đã chết và anh có thể đánh mất đi sự sống của bản thân mình.

Không màng đến lời của vị chỉ huy, người lính vẫn bỏ đi. Thật kỳ diệu, anh ta đã xoay sở để đến được bên người bạn của mình, nhấc anh ta lên vai và đem anh ấy trở về chiến hào của họ. Khi cả hai cùng té nhào xuống dưới hào, vị chỉ huy kiểm tra người lính bị trúng đạn rồi nhìn người bạn của anh một cách thông cảm.

-Tôi đã nói với anh rồi, công việc đó không đáng đâu. - Vị chỉ huy nói - Bạn anh đã chết, còn anh bị thương rất nặng.

Người lính trả lời:

- Mặc dầu vậy công việc đó vẫn rất đáng làm, thưa sếp.

- Anh nói đáng làm có nghĩa là sao? Bạn anh đã chết rồi cơ mà?

-Thưa sếp, công việc đó đáng làm là vì khi tôi đến bên anh ấy, anh vẫn còn sống và tôi rất mãn nguyện khi anh ấy nói với tôi rằng "Jim, tôi biết rằng chắc chắn anh sẽ đến với tôi!"

Trong cuộc sống, một việc có đáng làm hay không, hoàn toàn tùy thuộc vào cách chúng ta nhìn nó. Hãy can đảm và làm những gì mà trái tim ta mách bảo để rồi mai sau  bạn sẽ không phải ân hận vì mình đã không làm điều đó. Hy vọng rằng mỗi một người trong chúng ta sẽ ở trong vòng tay chân thật của những người bạn như vậy.

(ST)

Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2010

Món quà giáng sinh

O'Henry

Một đồng tám mươi bảy xu, đúng như vậy. Hàng ngày, cô cố gắng tiêu thật ít tiền khi đi chợ. Cô đi loanh quanh tìm mua thứ thịt và rau rẻ nhất cho bữa ăn hàng ngày, ngay cả lúc cảm thấy hết sức mệt mỏi cô vẫn cố tìm kiếm. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó.

Della đếm lại số tiền ít ỏi một lần nữa. Không hề có sự nhầm lẫn, chỉ có một đồng tám mươi bảy xu, và ngày mai sẽ là lễ giáng sinh.

Cô sẽ không thể làm gì hơn, chỉ còn cách ngồi xuống và khóc mà thôi. Ở đó, trong một căn phòng nhỏ, tồi tàn, cô đang nức nở.

Della sống trong căn phòng nhỏ nghèo nàn này với chồng của cô, James Dillingham Young, ở thành phố NEW YORK.

Họ có một phòng ngủ, một phòng tắm và một nhà bếp. James Dillingham Young may mắn hơn cô vì anh ấy có việc làm. Tuy vậy đó không phải là một công việc kiếm được nhiều tiền. Tiền thuê căn phòng này chiếm gần hết lương của anh ấy. Della đã cố gắng rất nhiều để tìm một công việc nhưng vận may đã không mỉm cười với cô. Tuy nhiên, cô rất hạnh phúc khi ôm Jim, James Dillingham Young, trong tay mỗi khi anh trở về.

Della đã ngừng khóc. Cô lau khô mặt rồi đứng nhìn một chú mèo xám trên bức tường đồng màu với nó bên cạnh con đường tối ngoài cửa sổ.

Ngày mai là Noel và cô chỉ còn một đồng tám mươi bảy xu để mua cho Jim, Jim của cô, một món quà. Cô muốn mua một món quà thật sự có ý nghĩa, một thứ có thể biểu hiện được tất cả tình yêu cô dành cho anh.

Della chợt xoay người chạy đến bên chiếc gương treo trên tuờng. Mắt cô sáng lên.

Cho đến bây giờ, gia đình James Dillingham Young chỉ có hai vật quí giá nhất. Một thứ là chiếc đồng hồ vàng của Jim. Chiếc đồng hồ này trước đây thuộc sở hữu của cha anh ta và trước nữa là ông nội anh. Thứ còn lại là mái tóc của Della.
Della thả nhanh mái tóc dài óng mượt xuống lưng. Thật tuyệt đẹp, không khác nào như một chiếc áo khoác đang choàng qua người cô. Della cuộn tóc lên lại. Cô đứng lặng đi rồi thút thít một lát.

Della bước chậm rãi qua các cửa hàng dọc hai bên đường rồi dừng lại trước bảng hiệu "Madame Eloise". Tiếp cô là một phụ nữ mập mạp, bà ta chẳng có một chút vẻ "Eloise" nào cả.

Della cất tiếng hỏi: "Bà mua tóc tôi không?"

- "Tôi chuyên mua tóc mà", bà ta đáp và bảo : "Hãy bỏ nón ra cho tôi xem tóc của cô đi".

Suối tóc nâu đẹp tụyệt vời buông xuống.

- "Hai mươi đồng" - bà ta định giá, bàn tay nâng niu mái tóc óng ả.

- "Hãy cắt nhanh đi! và đưa tiền cho tôi" - Della nói.

Hai giờ tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Cô tìm mua quà cho Jim trong các cửa hiệu trong niềm vui khôn tả. Cuối cùng cô cũng chọn được một thứ. Ðó là môt sợi dây đồng hồ bằng vàng. Jim rất quí chiếc đồng hồ của mình nhưng rất tiếc là nó không có dây. Khi Della trông thấy sợi dây này cô biết rằng nó phải là của anh và cô phải mua nó.

Cô trả hai mươi mốt đồng để mua và vội vã trở về nhà với tám mươi bảy xu còn lại.

Ðến nhà, Della ngắm mái tóc cực ngắn của mình trong gương và nghĩ thầm :"Mình có thể làm gì với nó đây?". Nửa giờ tiếp theo cô nhanh chóng chuẩn bị mọi thứ. Xong Della lại ngắm nghía mình trong gương lần nữa. Tóc của cô bây giờ toàn những sợi quăn quăn khắp đầu. "Chúa ơi, mình trông như một con bé nữ sinh ấy!". Cô tự nhủ: "Jim sẽ nói gì khi thấy mình như thế này?"

Bảy giờ tối, bữa ăn đuợc chuẩn bị gần xong. Della hồi hộp chờ đợi, hy vọng rằng mình vẫn còn xinh đẹp trong mắt Jim.

Thế rồi cửa mở, Jim bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cát áo khoác mới. Jim nhìn chằm chằm vào Della. Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên Jim òa khóc: "Ðừng nhìn em như thế, anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói "Giáng sinh vui vẻ", em có một món quà rất hay cho anh này!"

- Em đã cắt mất tóc rồi à? - Jim hỏi.

- Ðúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữa ư? Em vẫn là em mà! - Della nói.

Jim nhìn quanh rồi hỏi lại như một kẻ ngớ ngẩn: "Em nói là em đã bán tóc à?"

- Ðúng, em đã nói vậy, vì em yêu anh! Chúng ta có thể ăn tối được chưa, Jim?

Chợt Jim vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn. Anh nói: "Anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy".

Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung suớng, liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống. Trong đó là một bộ kẹp tóc, những chiếc kẹp dành cho mái tóc óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa!

Della nâng niu món quà, mắt tràn đầy hạnh phúc: "Tóc em sẽ chóng dài ra thôi Jim", nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng định tặng cho Jim và chạy đi lấy.

- Ðẹp không anh? Em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa nó cho em, Jim, hãy nhìn nó với sợi dây mới này.

Nhưng Jim không làm theo lời Della. Anh ngồi xuống vòng tay ra sau đầu mỉm cuời nói: "Della, hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu. Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp cho em. Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa tối được rồi em ạ".

Thứ Sáu, 17 tháng 12, 2010

Gió mùa đông bắc về... (bài của Minh Huyền)

Chào các thành viên trong ngôi nhà chung – 12A1-1984-Thái Phiên!
Các bạn đã đọc “Đoạn khúc mùa đông” của TBT – Sơn tím chưa? Hình như Sơn tím vẫn còn rất nhiều tơ vương ở quê nhà nên cảm nhận về thời tiết của miền Bắc thật chính xác. Bạn gửi tâm sự và nỗi nhớ của mình về nơi xa hôm trước, thì hôm sau miền Bắc trở lạnh đột ngột. Sáng sớm đạp xe đi làm, đi trong giá rét, mình vừa suýt xoa, vừa thấy trong đầu văng vẳng giai điệu bài hát “Gió mùa về” của Lê Minh Sơn. Vào blog của lớp đọc đoạn khúc của Sơn tím, thấy cảm động trước tấm lòng của tác giả và các bạn phương nam dành cho chúng mình những người “không đi đâu được” – đang ở lại quê nhà.
Mình sưu tầm được một bài viết của một tác giả trẻ, viết về cảm nhận “Gió mùa đông bắc về” –của người miền bắc, để các bạn phương nam cùng đọc, cùng cảm nhận cái giá rét của gió mùa đông bắc và vơi bớt nỗi nhớ quê hương nhé. Hy vọng các bạn cũng tìm thấy được tâm sự của mình trong đó.
Gió mùa đông bắc về... (bài sưu tầm)
Những con đường se lạnh, rùng mình trong hơi sương mỏng mảnh. Hàng cây già nua trút lá, cố nép mình trong vạt nắng cuối mùa nhàn nhạt, giăng giăng giữa lòng phố buồn tênh. Mùa đông đến từ lúc nào, có phải từ lúc có cơn gió lạnh lùa qua ô cửa, thổi bay tập bản thảo những bài thơ dở dở ương ương em viết cho mùa.
Ca khúc: Gió mùa về
Nhạc sĩ: Lê Minh Sơn
Trình bày: Ngọc Khuê
Em mặc thêm áo ấm bước xuống đường, thấy phố nằm co ro trong cái mảng màu xám xịt, bạc phếch và ảm đạm đặc trưng của mùa đông. Đi lang thang qua những quán cóc xiêu vẹo trên vỉa hè, lòng chạnh buồn khi những hồi ức tưởng đã tan vào tháng năm bỗng khe khẽ trở mình. Thứ nước mắt ngỡ đã đóng băng từ ngày ấy lại lăn dài trên má em nóng hổi. Ừ thôi thì cứ khóc đi, nhưng nhẹ nhàng thôi, đừng để ai nhìn thấy.
Hãy quay về căn nhà nhỏ của mình, vùi đầu vào chăn ấm, và để cho nó chảy ướt gối, nhưng đừng có nấc lên như thế! Và lại lắng nghe một ca khúc để thấy lòng mình nhói lên, để thấy mình vẫn còn buồn, thương, nhớ, tiếc - những cảm xúc rất người, để lại cười vu vơ vì điều xa xỉ đó. Nghe đi em - Ngọc Khuê - cái chất giọng là lạ, với những giai điệu là lạ, kén người nghe nhưng khi nghe rồi thì sẽ hóa đam mê...
Gió  mùa đông bắc về
Đèn trên phố mờ sương lạnh
Con chim trên cây không hót
Em ngồi em chải tóc.
Nghe đi em - những nốt nhạc âm âm trong giai điệu bập bùng như ngọn lửa hồng nhảy múa trong đêm lạnh, vậy mà sao vẫn có cảm giác se sắt cả thịt da. Bỗng thấy mình như trở về đêm đông của một mùa xa xưa nào đó, chỉ có sương trắng đêm và những ngọn đèn đường mờ ảo, không đủ sáng để soi tỏ bước chân người lang thang quay về lối cũ.
Lối đi giờ cũng mịt mù sương, chỉ còn lại những hàng cây bên đường gối đầu lên nhau say ngủ, cả con chim hình như cũng đang vùi mình trong chiếc tổ ấm áp, chẳng còn buồn cất cao tiếng hót. Có người con gái ngồi bên ô cửa chải mái tóc dài đã in vết thời gian qua mùa mùa lá đổ, trong cái lạnh của đêm và cái lặng lẽ, nhẫn nhịn đã chạm đến đáy tâm hồn mình.
Tay em lạnh, môi em lạnh
Sao chẳng có anh?
Bông hoa hồng ai mang tặng
Sao chẳng thấy anh.
Mùa đông ùa về trong từng cơn gió rét buốt, lạnh căm đôi bàn tay nhỏ chẳng có ai sưởi ấm, cả bờ môi thiếu nữ cũng héo mòn theo ngày tháng, vậy mà người thương giờ vẫn ở phương nao. Cô gái ấy giống em, nhưng không chỉ lạnh đôi tay, lạnh bờ môi mà còn lạnh tự sâu thẳm trong tim, lạnh đến mức đã không còn biết đau, biết nhớ. Thềm nhà còn đó những đóa hoa ai mang tặng. Tránh sao được những ánh nhìn thầm thương trộm nhớ lúc đương độ xuân thì? Nhưng em chỉ ước ao có được nụ hồng pha lê một thời ước hẹn, nào ngờ pha lê cũng từ cát bụi, rồi sẽ trở về cát bụi một khi lời hứa bị lãng quên...
Tiếng chuông chùa xa
Vỡ  trong chiều hoang vắng
Kìa tiếng rao của ai
Xé  tan màn đêm rét mướt
Rồi em sẽ lại lang thang qua từng con phố tưởng đã bị lãng quên khi thời gian nhuốm lên từng mảng màu ưu tư trầm mặc, chợt giật mình bởi tiếng chuông chùa trong một chiều hoang vắng. Âm thanh vang vang như đưa em chạm tới nơi thiền định, để trong một phút giây được lãng quên trần tục, quên đi mọi phiền muộn mà ai cũng từng mắc nợ một khi đã chọn kiếp làm người; để lại ước ao rằng cảm giác bình yên đến thành trống rỗng này sẽ kéo dài mãi mãi...
Âm nhạc của Lê Minh Sơn thật lạ, mê hoặc, quyến rũ, rất thực mà lại rất ảo. Vẳng một tiếng chuông chùa xa để đưa người ta đến nơi thoát tục, rồi ngay lập tức lại quay về với một tiếng rao đêm lảnh lót của những người bán hàng rong... Hai âm thanh tưởng như không thể dung hòa lại đứng sóng đôi trong những câu hát ngân dài, ám ảnh.
Người nhạc sỹ ấy đã đưa cả những âm thanh đời thường vào âm nhạc của mình, đó là những tiếng rao mà ta vẫn lắng nghe mỗi ngày trên đường phố: "Vỏ chai vỏ hộp sách báo bán đi...". Phải chăng đó cũng là âm nhạc - một bản hòa ca của những cuộc mưu sinh thầm lặng trong đêm?
Gió mùa đông bắc thổi đưa cánh cửa gỗ trên gác mái kêu cọt kẹt... Em chìm vào hồi ức, mơ màng, văng vẳng giọng cô ca sĩ đưa cả vào những giấc mơ lạnh buốt: "Gió mùa về, gió mùa về..."


Thứ Năm, 16 tháng 12, 2010

Happy New Year 2011

RÔ MI Ô & JULIET THỜI @

 (Xin chuyển tải nguyên văn thông tin cuộc trao đổi của Hải Chéc – sống bên Cezch & Hà ten)  Thư Hải Chéc gửi 12a1 : Thân gửi tất cả,
Hải đã tìm thấy tọa độ của Tân Huyền, chỉ thiếu địa chỉ e-mail nhưng chắc là thời gian tới sẽ xác minh được. Nếu ai có tài bắn tỉa thì thúc đẩy Tân Huyền cùng lên tiếng để trò chuyện những giờ phút cuối năm này.
Dia chi: Nguyễn Thị Tân Huyền : Lange strase 6.Gustre 6 18273 - Germany   DT : 00.49.3843/684215   

Thư Tác giải trả lời Gửi Hải & 12a1.

Thanks.

Mày phải gọi đi Hải. Dũng cảm lên. Vượt qua thử thách khó khăn này bằng chính tình yêu mày dành cho T Huyền còn nóng hổi như miếng SẮN NGỐ ngày nào thể hiện ở bài viết của Lan trên Blog lớp mình 12a1.

Các bạn 12a1 cũng thông cảm cho Hải Chéc,... lặn lội khó khăn tìm được DT mà không dám gọi. Cũng vì cái gọi là Auto reply được cài đạt trên máy điện thoại..

Chuyện đồn rằng, 10 năm về trước. Vào một ngày đẹp trời tại Praha phủ đầy tuyết trắng. Một chàng trai Việt, theo tiếng gọi của tình yêu thủa thiếu thời. Từ bỏ Tổ Quốc mình ra đi. Mang theo bên mình là một cái tội bán nước và một số điện thoại cầm tay nối mạng Mobile Phone. Anh quyết tìm lại tình yêu học trò của mình ở một đất nước láng riềng phồn hoa và nổi tiếng bởi những con người theo chủ nghĩa phát xít ... Lặn lội, nhịn đói, nhịn khát, vượt bao bão tuyết buốt tê,... Gần hai tháng trời, sức lực và tinh thần gần như cạn kiệt. Cuối cùng anh đã đìm được một trạm điện thoại công cộng nằm khuất trong một thung lũng gần biên giới giữa Tiệp và Đức. Như chết đuối bám
phải cọc, như kẻ ăn mày gặp chiếu manh... Như thác đổ, dòng máu Lạc Hồng đã sưởi ấm và lay động con tim của kẻ bán nước tưởng chừng đông lạnh bởi tuyết và sự phồn hoa ở phương trời xa xăm ấy.

 Lấy hết lý trí, sức lực của con người đang đấu tranh cho sự sinh tồn nơi một thung lũng vắng với đầy tuyết và giá lạnh. Dồn tất cả sức mạnh của tình yêu thủa thiếu thời vào đôi bàn tay phải. Anh nhấc chiếc điện thoại công cộng lên. Còn bàn tay trái (anh thuận tay trái) run rẩy, run rẩy... anh bấm từng số một ... 00.49.3843/684215... Tai anh chắm chú lắng nghe những tiếng kêu "tít" "tí".. và cảm nhận đó chính là tín hiệu của tình yêu nàng dành cho anh. Trời Tây, ngày đông tuyết phủ, mây trắng bay bay như thể minh chứng cho tình yêu trong sáng tuồi học trò họ dành cho nhau. Anh từ từ cảm nhận những tín hiệu tình yêu ấy , chẳng vội vàng gì... Ta sắp có nàng, có tình yêu của ta...
Anh mơ màng và tưởng chừng như thời gian đang dừng lại. Tưởng chừng như anh đang được sống trong một thế giới mà chỉ có những âm thanh, những màu sắc của tình yêu... Và một tiếng nói... trời, tiếng nói của nàng. Tiếng nói mà hơn 20 năm nay anh mong, anh đợi. Tiếng nói mà anh đã cất sâu tận trái tim mình....

" Anh ơi, thằng HẢI CHÉC lớp 12a1 phổ thông nó gọi nè ...!"

Như một chiến binh thành Praha, Anh đứng lặng. Dáng đứng câm lặng của anh in mãi giữa một biển tuyết trắng mùa đông Châu Âu.

(Lời của tác giả: Sau khi chứng kiến một câu chuyện tình Romio và Juliet Viết Nam. Một người bạn 12a1 ngày nào, cất công đi tìm hiểu để truyền lại cho cộng đồng cư dân 12a1 và các thế hệ con cháu cảm nhận. Cuối cùng thám tử bất đắc dĩ đã đượcc chính hãng Mobile Phone xác nhận là: Đó là tiếng máy cài đặt chuông của số máy 00.49.3843/684215 tại thời điểm chàng gọi cho nàng...)

Thân

Thứ Ba, 14 tháng 12, 2010

ĐOẢN KHÚC MÙA ĐÔNG

“Dường như ai đi ngang cửa,
Gió mùa đông bắc se lòng
Chút lá thu vàng đã rụng
Chiều nay cũng bỏ ta đi...”

Sáng nay cà phê Sài Gòn , không khí se se lạnh  chợt nhớ Hải Phòng mùa đông. Gió Đông Bắc từ biển thổi vào lạnh buốt thay cho những ngọn gió mát lành mơn man của mùa hạ, mùa thu . Từng hàng cây trên những con đường nhỏ nên thơ đang lưu luyến buông từng chiếc lá . Những cơn buốt lạnh đang ngập tràn mặt biển . Cánh buồm xơ xác trong gió rét  . Lạnh tê tái trên từng chiếc lá thu phai sót lại , trên cả  đám lá vàng khô xào xạc hè phố mỗi sớm mai .

Se sắt  tận đáy lòng nhớ tiếng xe đạp cô đơn chầm chậm trong đêm vắng . Mùa đông thành phố như vắng hơn, con người ít họat động ầm ĩ hơn và tự tìm lại mình trong cái  lạnh miên man bất tận như đang nghỉ ngơi tại một trạm dừng chân trong năm. Đã bao lần nhớ về mùa đông , một nỗi nhớ xa xôi , mơ hồ như có thể đọng thành thơ

Trong nhừng ngày đông lạnh chờ đợi mùa xuân , chờ đợi bầu trời trong xanh , chờ đợi tình yêu tươi tắn  trong trẻo đẹp như hoa  ta lại muốn tìm về bếp lửa . Một bếp lửa thật ấm áp , bữa cơm gia đình đông vui , vòng tay chia sẻ và bờ môi thắm nồng.  Một nụ cười tươi rạng rỡ đón ta về như xua tan cơn lạnh mùa đông .

Sáng nay cà phê lòng tự hỏi Mây lang thang có nhớ mùa đông và ở nơi xa thật xa  – quê hương yêu dấu các bạn ta có lạnh lắm không ?

Sơn tím

Chủ Nhật, 12 tháng 12, 2010

Những phút xao lòng (Kim Chinh)

Gửi BBT và 12A1 ! Có ai thấy mình đồng cảm với bài thơ không ?


Những phút xao lòng

Có thể vợ mình xưa cũng có một người yêu
(Người ấy gọi vợ mình là người yêu cũ)
Cũng như mình thôi, mình ngày xưa cũng thế
Yêu một cô, giờ cô ấy đã lấy chồng

Có thể vợ mình vì những phút mềm lòng
Nên giấu kín những suy tư, không kể về giấc mộng
Người yêu cũ vợ mình có những điều mình không có được
Cô ấy không nói ra vì sợ mình buồn

Mình cũng có những phút giây cảm thấy xao lòng
Khi gặp người yêu xưa với những điều vợ mình không có được
Nghĩ về cái đã qua nhiều khi nuối tiếc
Mình cũng chẳng nói ra vì sợ vợ buồn

Sau những lần nghĩ đâu đâu mình thương vợ mình hơn
Và cảm thấy mình như người có lỗi
(Chắc vợ mình hiểu điều mình không nói
Cô ấy cũng thương yêu và chăm chút mình hơn)

Mà có trách chi những phút xao lòng
Ai cũng có một thời để yêu và một thời để nhớ
Ai cũng có những phút giây ngoài chồng ngoài vợ
Đừng có trách chi những phút xao lòng

THUẬN HỮU

Chép tặng các bạn nam 12A1

Đàn ông những năm bốn mươi


                                   Phan Huyền Thư
Đàn ông những năm bốn mươi
da cam
màu lửa
Khủng hoảng giữa đời

Đàn ông những năm bốn mươi
Không còn yêu mình nữa
lập loè
Khinh công

Đàn ông những năm bốn mươi
tự dưng hối hả
Đến rồi đi
Lũ con gái mười lăm
đêm nằm
Khóc.



Một bạn nữ 12A1

Thứ Năm, 9 tháng 12, 2010

Cây , Lá và Gió


Từ năm 2003, có một câu chuyện được gửi đăng và chia sẻ trên nhiều blog, website cá nhân.
Câu chuyện ban đầu được viết bằng tiếng Hoa, rồi sau đó được chuyển sang tiếng Anh, và rồi là tiếng Việt. Một câu chuyện khá hay về ba nhân vật: Cây, Lá và Gió...



Nếu bạn muốn có tình yêu của ai đó… đầu tiên hãy yêu người đó trước đã!


CÂY

Lý do tôi được gọi là cây là vì tôi thích vẽ cây, một thời gian dài, tôi vẽ một cái cây nhỏ ở góc những bức tranh của tôi.

Tôi đã từng hẹn hò với 5 cô gái khi tôi còn học dự bị đại học, trong số đó có một người tôi rất mến, rất mến nhưng lại không có can đảm để quen cô ấy. Cô ấy không có khuôn mặt xinh đẹp, không có những ngón tay thon dài, không có một ngọai hình nổi bật, cô ấy là một cô gái hết sức bình thường.

Tôi thích cô ấy, thật sự thích cô ấy. Tôi thích sự ngây thơ, thích nét tinh nghịch, thích sự dễ thương, thông minh và yếu ớt của cô ấy. Lý do mà tôi không quen với cô ấy là vì tôi nghĩ người quá bình thường như cô ấy thì không hợp với tôi. Tôi cũng sợ rằng khi quen nhau rồi thì những tình cảm tốt đẹp tôi dành cho cô ấy cũng tan vỡ. Một phần cũng sợ những tin đồn sẽ làm tổn thương cô ấy. Tôi nghĩ rằng nếu cô ấy thật sự dành cho tôi thì cuối cùng cô ấy cũng sẽ là của tôi và tôi không việc gì phải từ bỏ mọi thứ vì cô ấy. Lý do cuối cùng đã khiến cô ấy ở bên cạnh tôi suốt ba năm. Cô ấy nhìn tôi theo đuổi những cô gái khác và... tôi đã làm cô ấy khóc suốt ba năm đó.

Cô ấy muốn làm một diễn viên giỏi nhưng tôi lại là một đạo diễn vô cùng khắt khe. Khi tôi hôn người bạn gái thứ hai thì cô ấy từ đâu đi tới, cô ấy rất bối rối nhưng cũng chỉ cười và nói "Cứ tự nhiên!" trước khi chạy đi. Ngày hôm sau, mắt cô ấy sưng như một hạt dẻ. Tôi cố tình không hiểu lý do tại sao cô ấy khóc và chọc cô ấy suốt ngày hôm đó. Khi mọi người đi về hết, cô ấy ngồi khóc một mình trong lớp. Cô ấy không biết tôi quay trở về lớp để lấy đồ…và tôi đã ngồi nhìn cô ấy khóc hơn một tiếng.

Người bạn gái thứ tư của tôi không thích cô ấy. Có một lần hai người đã cãi nhau, tôi biết theo tính cách của cô ấy, cô ấy chắc chắn không phải là người gây chuyện nhưng tôi vẫn đứng về phía bạn gái mình. Tôi mắng cô ấy, cô ấy đã nhìn tôi với một ánh mắt thật sự “shock”, tôi đã không quan tâm đến cảm giác của cô ấy và bỏ đi với bạn gái của mình.

Ngày hôm sau, cô ấy vẫn cười giỡn với tôi như không có chuyện gì xảy ra, tôi biết cô ấy bị tổn thương nhưng tôi nghĩ cô ấy không biết, tôi cũng đau như cô ấy vậy.

Khi tôi chia tay với người bạn gái thứ 5, tôi đã hẹn hò với cô ấy, sau khi đi chơi được vài ngày tôi nói với cô ấy tôi có chuyện muốn nói cho cô ấy, cô ấy nhìn tôi và cũng nói là có chuyện muốn nói cho tôi biết. Tôi nói cho cô ấy nghe về việc tôi chia tay và cô ấy nói cho tôi hay là cô ấy bắt đầu quen người con trai khác. Tôi biết người đó là ai, người đó đã theo đuổi cô ấy một thời gian dài, một người con trai rất dễ thương, năng động và đầy sức sống. Việc người đó thích cô ấy đã được bàn tán trong trường một thời gian dài.

Tôi không thể nói cho cô ấy biết là tim tôi đau như thế nào, tôi chỉ cười và chúc mừng cô ấy. Khi tôi về tới nhà, tim tôi đau đến nỗi tôi không thể đứng vững nổi nữa, giống như có một tảng đá đè nặng lên ngực tôi, Tôi không thở nổi, muốn hét thật to nhưng không thể. Nước mắt rơi xuống, tôi gục ngã và khóc. Đã bao nhiêu lần tôi nhìn thấy cô ấy khóc vì một người đàn ông cũng không chịu hiểu cho cảm giác của cô ấy?

Sau khi tốt nghiệp, tôi cứ đọc mãi cái sms được gửi một ngày sau đó:

Lá rời cây là vì gió cuốn đi hay là vì cây không giữ lá lại.




 Suốt thời còn học dự bị đại học, tôi rất thích đi nhặt lá, tại sao ư? Tại vì tôi thấy để một cái lá rời khỏi cái cây mà nó đã dựa dẫm lâu như vậy cần phải rất can đảm. Suốt thời gian học dự bị, tôi luôn ở rất gần một người con trai, không phải là bạn trai đâu… chỉ là bạn bè thôi. Khi anh ấy có người bạn gái đầu tiên. Tôi học được một cảm giác mà trước giờ tôi nghĩ là mình không thể có – Sự ganh tị. Nỗi cay đắng đó không thể diễn tả bằng lời, giống như là cực đỉnh của đau khổ vậy. Nhưng sau đó hai tháng thì họ chia tay, tôi chưa kịp vui mừng thì anh ấy lại quen tiếp một người con gái khác.

Tôi thích anh ấy và tôi biết rằng anh ấy cũng thích tôi. Nhưng tại sao anh ấy lại không hề biểu hiện? Tại sao anh ấy thích tôi mà lại không chịu bắt đầu trước. Mỗi lần anh ấy có bạn gái mới là một lần tim tôi đau nhói. Thời gian trôi qua, tim tôi đã vì anh ấy mà tổn thương rất nhiều. Tôi bắt đầu tin rằng đây chỉ là tình cảm đơn phương của mình tôi mà thôi. Nhưng nếu anh ấy không thích tôi thì tại sao lại đối xử tốt với tôi như vậy. Nó khác xa với việc anh ấy làm vì tình bạn. Thích một người sao mà khổ như vậy. Tôi có thể biết anh ấy thích gì, biết sở thích của anh ấy, nhưng tình cảm anh ấy dành cho tôi thì tôi không thể hiểu được và tôi cũng không thể nào mở lời được.

Trừ việc đó ra, tôi vẫn muốn được ở bên cạnh anh cấy, quan tâm anh ấy, chăm sóc anh ấy và yêu anh ấy, hi vọng một ngày đẹp trời nào đó anh ấy sẽ thay đổi và yêu tôi, kiểu như đợi điện thọai của anh ấy mỗi đêm, muốn anh ấy gửi tin nhắn cho mình… Tôi biết cho dù anh ấy bận thế nào, anh ấy cũng sẽ dành thời gian cho tôi. Bởi vì như vậy nên tôi đã chờ anh ấy. Ba năm thật khó mà trôi qua và nhiều lúc tôi cũng nghĩ đến chuyện bỏ cuộc. Thỉnh thoảng, tôi tự hỏi liệu tôi có nên tiếp tục đợi chờ hay không? Nỗi đau, sự tổn thương và nỗi ám ảnh đã theo tôi suốt ba năm.

Cho đến năm tôi sắp tốt nghiệp, một chàng trai nhỏ hơn tôi một tuổi đã công khai theo đuổi tôi. Mỗi ngày anh ấy đều thể hiện tình cảm với tôi, anh ấy như một cơn gió, cố thổi một chiếc lá ra khỏi cành cây mà nó dựa dẫm, ban đầu tôi thấy hơi khó chịu, nhưng dần dần tôi đã dành cho anh ấy một góc nhỏ trong tim mình. Đến cuối cùng, tôi nhận ra rằng cơn gió đó có thể làm tôi hạnh phúc, có thể thổi tôi tới một vùng đất tốt đẹp hơn… cho nên cuối cùng tôi đã rời cây, nhưng cái cây chỉ cười và không hề khuyên tôi ở lại.

Lá rời cây là vì gió cuốn đi hay là vì cây không giữ lá lại...


GIÓ

Tôi thích một cô gái được gọi là Lá. Bởi vì cô ấy quá dựa dẫm vào cây cho nên tôi phải trở thành một cơn gió mạnh, một cơn gió có thể cuốn cô ấy đi. Lần đầu tiên tôi gặp cô ấy là khỏang một tháng sau khi tôi chuyển trường tới đây. Tôi nhìn thấy một cô gái nhỏ nhắn hay nhìn đội trưởng và tôi chơi đá bóng. Suốt thời gian đó, cô ấy luôn ngồi đó, một mình hoặc với những người bạn chỉ để nhìn đội trường. Khi anh ấy nói chuyện với những cô gái khác, tôi nhận thấy sự ghen tị trong mắt cô ấy, khi anh ấy nhìn cô ấy, tôi lại thấy nụ cười trong mắt cô ấy. Nhìn cô ấy trở thành một sở thích của tôi, giống như cô ấy thích nhìn anh ấy vậy.

Một ngày, cô ấy không xuất hiện nữa, tôi cảm thấy như có gì đó trống vắng vậy. Tôi không thể giải thích nổi cảm giác của mình lúc đó , cảm thấy như là khó chịu lắm vậy, bữa đó đội trưởng cũng không tới, tôi tới lớp của hai người, đứng ở ngòai và nhìn thấyanh ấy đang la mắng cô ấy. Mắt cô ấy ngân ngấn nước khi anh ta đi. Ngày hôm sau, tôi thấy cô ấy trở lại bình thường, vẫn ngồi đó và ngắm anh ta. Tôi đi ngang qua cô ấy và cười, tôi viết một lời nhắn và đưa cho cô ấy, cô ấy hơi ngạc nhiên, cô ấy nhìn tôi , cuời rồi nhận mảnh giấy. Ngày hôm sau, cô ấy xuất hiện, đưa tôi mảnh giấy rồi đi.

"Trái tim của chiếc lá quá nặng nề, gió không thể thổi đi được đâu"

"Không phải tại vì trái tim chiếc lá quá nặng nề. Nó bởi vì chiếc lá không muốn rời khỏi cây"

Tôi trả lời lời nhắn của cô ấy như vậy và dần dần cô ấy đã chấp nhận những món quà và điện thọai của tôi. Tôi biết người cô ấy yêu không phài là tôi. Nhưng tôi có linh cảm là một ngày nào đó tôi có thể làm cho cô ấy thích tôi. Trong vòng bốn tháng, tôi công khai tình cảm của tôi với cô ấy không dưới 20 lần. Mỗi lần như vậy, cô ấy đều chuyển đề tài, nhưng tôi không bỏ cuộc. Nếu tôi đã quyết định muốn có cô ấy, tôi sẽ làm mọi cách để cô ấy thích tôi. Tôi không thể nhớ nổi là tôi đã tỏ tình với cô ấy bao nhiêu lần. Mặc dù cô ấy lảng tránh nhưng trong lòng tôi vẫn nuôi hi vọng, hi vọng một ngày cô ấy sẽ chịu làm bạn gái của tôi.

Một hôm tôi gọi điện cho cô ấy nhưng cô ấy không nói gì cả. Tôi hỏi cô ấy "Em sao vậy, sao em không nói gì hết vậy?", cô ấy nói "Đầu của em đau lắm" - "Hả?", tôi không tin vào tai mình. "Đầu em đau lắm!" cô ấy lặp lại to hơn. Tôi cúp máy và vội vàng đón taxi đến nhà cô ấy, khi cô ấy vừa ra mở cổng, tôi ôm ghì cô ấy vào lòng…

Và từ hôm đó… chúng tôi là một cặp.

Vậy lá rời cây là vì gió thổi đi hay vì cây đã không giữ lá lại?...


SƯU TẦM